Player FM - Internet Radio Done Right
11,512 subscribers
Checked 4d ago
Added nine years ago
Content provided by France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. All podcast content including episodes, graphics, and podcast descriptions are uploaded and provided directly by France Médias Monde and RFI Tiếng Việt or their podcast platform partner. If you believe someone is using your copyrighted work without your permission, you can follow the process outlined here https://player.fm/legal.
Player FM - Podcast App
Go offline with the Player FM app!
Go offline with the Player FM app!
Tạp chí đặc biệt
Mark all (un)played …
Manage series 130294
Content provided by France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. All podcast content including episodes, graphics, and podcast descriptions are uploaded and provided directly by France Médias Monde and RFI Tiếng Việt or their podcast platform partner. If you believe someone is using your copyrighted work without your permission, you can follow the process outlined here https://player.fm/legal.
Phân tích những hồ sơ lớn, nóng bỏng.
162 episodes
Mark all (un)played …
Manage series 130294
Content provided by France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. All podcast content including episodes, graphics, and podcast descriptions are uploaded and provided directly by France Médias Monde and RFI Tiếng Việt or their podcast platform partner. If you believe someone is using your copyrighted work without your permission, you can follow the process outlined here https://player.fm/legal.
Phân tích những hồ sơ lớn, nóng bỏng.
162 episodes
All episodes
×T
Tạp chí đặc biệt


1 Elon Musk : Ngôi sao vụt tắt trên chính trường Hoa Kỳ 9:38
9:38
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked9:38
Elon Musk rời khỏi chính phủ Hoa Kỳ; Việt Nam được ve vãn trong bối cảnh chiến tranh thuế quan; Hoa Kỳ ngừng cấp visa cho sinh viên, giấc mơ du học nước Mỹ đổ bể. Trên đây là một số chủ đề chính trong Tạp chí Thế giới đó đây tuần này. Vào thứ Sáu 30/05/2025, tại Phòng Bầu Dục, tổng thống Donald Trump cùng Elon Musk có buổi họp báo, khép lại nhiệm kỳ hơn 130 ngày của Elon Musk tại bộ Hiệu Quả Chính Phủ Mỹ (DOGE). Trên mạng xã hội X, tổng thống Trump khẳng định “đó là ngày cuối cùng của Elon Musk, nhưng không hẳn là vậy, ông ấy sẽ vẫn sát cánh cùng chúng tôi, đi đến cuối con đường. Elon là một người tuyệt vời”. Hôm thứ Tư 28/05, trên mạng xã hội mà tỷ phú gốc Nam Phi mua lại, Elon Musk viết: “Nhiệm kỳ của tôi với tư cách là một nhân viên chính phủ đặc biệt sắp kết thúc, tôi muốn cảm ơn tổng thống Donald Trump đã cho tôi cơ hội cắt giảm các chi tiêu không cần thiết”. Quyết định rời chính phủ được đưa ra một ngày sau khi ông chủ Tesla lần đầu tiên chỉ trích Donald Trump về dự luật chi tiêu “quá đà”, khiến ngân sách thâm hụt hơn nữa, và ảnh hưởng đến nhiệm vụ của bộ Hiệu Quả Chính Phủ do ông đứng đầu. Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử, Elon Musk được coi là một trong những người quyền lực nhất Hoa Kỳ, được Trump ca ngợi là “ngôi sao”, là bậc “thiên tài”. Trong vòng 4 tháng dấn thân vào chính trị, cơ quan do Musk đứng đầu với nhiệm vụ cắt giảm 2 ngàn tỷ chi tiêu công, và hiện được cho là đã giảm được 170 tỷ (con số này khó kiểm chứng). Các hành động của DOGE đã bị chỉ trích không ít vì các biện pháp “tàn nhẫn”, sa thải hàng loạt công chức, đôi khi đuổi việc nhầm các nhân viên giữ vị trí quan trọng, xóa bỏ nhiều viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ. Elon Musk cũng gây tranh cãi bởi quan điểm chính trị cực hữu, thậm chí bị cáo buộc là can thiệp vào các cuộc bầu cử ở châu Âu, ủng hộ cánh hữu lên ngôi, cụ thể là ở Đức. Từ cuối tháng Tư, theo AFP, Elon Musk đã thông báo muốn “rút lui khỏi chính trường”, để chú tâm vào các doanh nghiệp của ông, đặc biệt là Tesla. Ảnh hưởng của Elon Musk gia tăng trên chính trường, đối nghịch với sự sa sút của Tesla. Riêng tại thị trường châu Âu, doanh số bán xe ô tô điện vào tháng Tư đã giảm đi một nửa. Cả thành phố chống Tesla Tại Úc, lập trường chính trị của Elon Musk cũng ảnh hưởng đến Tesla. Ở Marion, miền nam nước Úc, gần như cả thành phố phản đối dự án xây nhà máy tái chế bình điện của Tesla. Trong một cuộc tham vấn về việc bán đất công cho tập đoàn của Musk, 95 % dân của thành phố đã phản đối, không phải vì dự án, mà là phản đối Musk, với các lập trường cực hữu. Từ Sydney, thông tín viên Grégory Plesse tường trình : « Dự án này có thể tạo ra hàng trăm việc làm và bơm vào nền kinh tế địa phương hàng chục triệu đô la. Tuy nhiên, tại Marion City, gần như toàn bộ dân cư phản đối việc xây dựng nhà máy của Tesla ở đây, lý do chủ yếu không phải là dự án của Tesla, mà là do ông chủ Elon Musk với lập trường chính trị ngày càng phát xít. Gần 1000 người đã trả lời trong khuôn khổ cuộc điều tra lấy ý kiến người dân. Đối với nghị viên của hội đồng thành phố, Sarah Luscombe, những người này coi đây là cơ hội để bày tỏ sự bất đồng với các phát biểu của người đàn ông giàu nhất thế giới. Bà nói : “Người dân muốn đưa ra ý kiến về các vấn đề của thế giới và theo tôi, trong cuộc tham vấn này, họ thấy có cơ hội để nói rằng thành phố Marion không có chỗ cho một nhà máy của Elon Musk”. Tuy nhiên, điều này cũng không ngăn cản hội đồng thành phố thông qua việc chuyển nhượng đất cho tập đoàn Tesla. Thị trưởng của Marion nhấn mạnh đến các lợi ích kinh tế cho thành phố từ dự án này. Tuy nhiên, quyết định của thị trưởng vẫn cần được chính phủ bang Nam Úc thông qua. Cách nay gần một tháng, những người thuộc đảng Lao Động đã thắng lớn, tái đắc cử tại cuộc bầu cử liên bang, đặc biệt là vì đã phản đối các chính sách của tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump. » Hoa Kỳ ngừng cấp visa cho sinh viên quốc tế, giấc mơ du học Mỹ đổ bể Vẫn về thời sự Hoa Kỳ, ngoại trưởng Marco Rubio đã chỉ thị cho các sứ quán và lãnh sự Mỹ ở nước ngoài tạm thời đóng lịch hẹn xin visa của các sinh viên, trong lúc chờ triển khai công cụ rà soát mạng xã hội của người nộp đơn. Mặc dù hôm 29/05, bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã trấn an, cho rằng quyết định này chỉ là tạm thời, nhưng cũng đã khiến các sinh viên quốc tế muốn sang du học tại Mỹ một phen điêu đứng, đặc biệt là đối với các sinh viên Ấn Độ, chiếm gần 30 % lượng du học sinh tại Mỹ trong năm học 2023-2024 (330 000 người). Từ New Delhi, thông tín viên Léa Aujal tường trình : « Priya là một sinh viên ngành luật. Các kế hoạch của cô đã đổ bể khi Hoa Kỳ đưa ra thông báo này. Đối với cô, đây là một dấu hiệu tồi tệ, gửi đến tất cả những ai muốn xây dựng tương lai tại Hoa Kỳ. Cô nói : « Điều này thực sự khiến các sinh viên Ấn Độ nản lòng, và cũng khiến mọi người rất lo lắng, liệu có được trường nhận học không, có gia hạn được visa hay không. Quyết định này rất bất thường, nhưng không ngạc nhiên nếu xét đến chính phủ hiện tại của Hoa Kỳ và các chính sách mới được triển khai gần đây. Nhưng chúng tôi vẫn nuôi hy vọng. Về phần mình, tôi muốn du học Mỹ năm nay, để học master tại trường đại học Pennsylvanie. Nila, sinh viên ngành văn học tại New Delhi cũng có cùng nỗi thất vọng : « Với quyết định này, Hoa Kỳ đơn giản là đóng lại các triển vọng, cơ hội cho sinh viên Ấn Độ, những người muốn ra nước ngoài để học tập. Các sinh viên phải được quyền làm điều họ muốn mà không bị ngăn cản. Ra nước ngoài học cao lên, học hỏi những gì mà họ muốn. Chúng tôi phản đối quyết định này. » Từ năm 2024, theo dữ liệu của bộ Ngoại Giao Ấn Độ, chính quyền Donald Trump đã trục xuất 682 người mang quốc tịch Ấn Độ ». Mỹ cũng là một điểm đến thu hút nhiều sinh viên Việt Nam, và hiện là thời điểm các sinh viên chuẩn bị làm thủ tục xin thị thực để du học tại Mỹ. Trong cuộc họp báo hôm 29/05, người phát ngôn của bộ Ngoại Giao Việt Nam, Phạm Thu Hằng, khẳng định rằng các cơ quan đại diện Việt Nam tại Mỹ đang làm việc với Mỹ để tìm hiểu thông tin. Bà Hằng nói thêm : « Chúng tôi mong muốn việc phỏng vấn và xin thị thực du học đối với học sinh, sinh viên Việt Nam được tiến hành thuận lợi, để giáo dục tiếp tục là một lĩnh vực hợp tác trụ cột trong quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước ». Theo Viện giáo dục Quốc tế, Việt Nam là nguồn sinh viên lớn nhất từ các nước ASEAN tại Hoa Kỳ, lên đến 31.000 trong năm học 2023-2024, gồm tất cả các cấp bậc. Sắc lệnh kinh tế của Donald Trump bị chặn là điều đã được lường trước Về cuộc chiến thuế quan do tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump khởi xướng, hôm thứ Tư vừa qua, một tòa án Hoa Kỳ đã chặn các mức thuế đối ứng mà tổng thống Trump ban hành, được áp dụng từ đầu tháng Tư đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Đây được coi là một thách thức đối với chính sách kinh tế của tổng thống Mỹ. Theo các thẩm phán, sắc lệnh mà ông Trump ban hành khi trở lại Nhà Trắng vượt quá quyền hạn của tổng thống, trong khi bất cứ quyết định nào về thương mại, đều thuộc thẩm quyền của Quốc Hội. Chính quyền Trump ngay lập tức đã kháng cáo và viện dẫn một đạo luật cho phép tổng thống được quyết định trong trường hợp khẩn cấp về kinh tế. Theo nhà kinh tế Vincent Vicard , « thực sự không có lý do gì để nói về tình trạng khẩn cấp về kinh tế liên quan đến cán cân thương mại của Mỹ ». Trả lời RFI Pháp ngữ, ông giải thích : « Đây không phải là điều đáng ngạc nhiên vì thông thường tại Hoa Kỳ, theo Hiến Pháp, quyền quyết định về chính sách kinh tế thuộc về Quốc Hội. Tổng thống Hoa Kỳ có thể sử dụng các công cụ chính sách thương mại nếu xảy ra tình trạng khẩn cấp hoặc liên quan đến an ninh quốc gia ; Tình trạng mất cân bằng trong cán cân thương mại của nền kinh tế Hoa Kỳ, không phải là điều mới mẻ, và cũng không phải là điều gây nguy hiểm cho nền kinh tế Hoa Kỳ về ngắn hạn. Hoa Kỳ có thể gặp phải các vấn đề như phi công nghiệp hóa, nợ nước ngoài, nhưng không tạo ra tình trạng khủng hoảng. Đối với Hoa Kỳ, khi tổng thống đưa ra các sắc lệnh về các vấn đề thương mại, thì không có gì bất ngờ khi vấp phải các biện pháp pháp lý chống lại ông. Điều này đã được dự đoán. Hiện tại, có một phán quyết chống lại các quyết định của tổng thống Trump, nhưng còn nhiều điều sẽ diễn ra, và ông Trump đã kháng cáo. Chúng ta phải đợi xem tình hình sẽ diễn biến ra sao. Việt Nam được quốc tế ve vãn Trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung do tổng thống Donald Trump khởi xướng, Việt Nam nổi lên như một điểm đến được nhiều cường quốc quốc tế “ve vãn”. Với vị trí địa lý chiến lược, môi trường chính trị ổn định và chi phí sản xuất cạnh tranh, Việt Nam được xem là giải pháp thay thế tiềm năng cho vai trò « công xưởng thế giới » của Trung Quốc, trong quá trình tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu. Chỉ trong vòng hai tháng gần đây, Hà Nội đã liên tiếp đón tiếp nhiều nguyên thủ của các nước lớn, cho thấy vị thế ngày càng gia tăng của Việt Nam trên bàn cờ quốc tế. Gần đây nhất, tổng thống Pháp Emmanuel Macron thực hiện chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 25 - 27/5. Hai bên đã thúc đẩy hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực, từ kinh tế, giáo dục đến quốc phòng và chuyển đổi năng lượng. Chuyến thăm được xem như một phần trong chiến lược mở rộng hiện diện của Pháp tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, đồng thời khẳng định vai trò trung tâm của Việt Nam trong khu vực. Trước đó, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng đến thăm Việt Nam và được tiếp đón long trọng với 21 phát đại bác. Chuyến thăm mang thông điệp rõ ràng về việc củng cố quan hệ kinh tế song phương, duy trì ổn định trong bối cảnh các chính sách bảo hộ thương mại từ Washington tiếp tục gây sóng gió trên thị trường toàn cầu. Ngoài ra, trong tháng Tư, thủ tướng Tây Ban Nha Pedro Sanchez có chuyến thăm chính thức tới Hà Nội, chuyến thăm đầu tiên của nguyên thủ nước này kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Thủ tướng Sanchez khẳng định mong muốn đóng vai trò “cầu nối Đông - Tây”, thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu trong bối cảnh căng thẳng thương mại toàn cầu. Thực tế, Việt Nam không nằm ngoài “tầm ngắm” của cuộc chiến thuế quan. Với mức thặng dư thương mại lớn trong xuất khẩu sang Hoa Kỳ, Việt Nam từng bị chính quyền Trump đe dọa áp thuế lên đến 46%. Dù sau đó quyết định này bị hoãn, nhưng Washington vẫn nhiều lần cáo buộc Việt Nam là “trạm trung chuyển” cho hàng hóa Trung Quốc, lách các rào cản thuế quan của Mỹ. Phía Hà Nội đã lên tiếng bác bỏ cáo buộc, đồng thời đề xuất tháo gỡ toàn bộ rào cản thuế giữa hai nước. Tấn công bằng drone : chiến lược của Putin Liên quan đến cuộc chiến tại Ukraina, trong tuần vừa qua, hai bên đã đề xuất tiếp tục đàm phán, dự trù vào đầu tuần sau, 02/06. Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ Sáu, đã đề xuất tổ chức cuộc gặp ba bên giữa tổng thống Nga Vladimir Putin, tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky và tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tại nước này. Lãnh đạo ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ hy vọng rằng vòng đàm phán thứ hai này có thể đạt tiến triển, nhằm đạt lệnh ngừng bắn, tiến tới hòa bình. Tuy nhiên, một quan chức cấp cao của Liên Hiệp Quốc, Rosemary DiCarlo, lại không quá hy vọng vào cuộc đàm phán này, đồng thời lên án các cuộc tấn công quy mô lớn của Nga vào Ukraina trong những ngày gần đây, đáng chú ý con số kỷ lục hơn 300 drone trong đêm Chủ Nhật, sáng thứ Hai tuần này. Tướng Jérôme Pelisrandi, tổng biên tập tạp chí Defense, trả lời RFI Pháp ngữ cho rằng cuộc tấn công bẳng drone là chiến lược của ông Putin : « Đối với tổng thống Nga, chiến tranh vẫn tiếp diễn, và không có lý do gì phải nhượng bộ hay giảm các nỗ lực quân sự. Chiến tranh là chiến tranh. Đó là cuộc chiến mà Vladimir Putin muốn thắng bằng mọi giá. Điều mà ông ấy muốn là Ukraina phải đầu hàng, và điều này theo tôi là thảm kịch mà người dân Ukraina đang phải chịu đựng ngày nay ».…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Biên giới Phần Lan - Nga : Điểm nóng mới tiếp sau chiến tranh Ukraina ? 11:58
11:58
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked11:58
Trong khi chiến tranh Ukraina chưa có dấu hiệu lắng dịu bất chấp các nỗ lực ngoại giao quốc tế, thì tình hình dường như cũng có nguy cơ nóng lên ở biên giới giữa Phần Lan với Nga. Trải dài 1.340 km, biên giới giữa Phần Lan - Nga là đường ranh giới dài nhất giữa NATO và Nga và cũng được xem là khu vực mang tính chiến lược cao. Các hình ảnh vệ tinh gần đây cho thấy Matxcơva đang gia tăng các hoạt động quân sự ở sát đường biên giới với Phần Lan, thành viên mới chính thức gia nhập Liên Minh Bắc Đại Tây Dương - NATO vào năm 2023. Tại Kamenka của Nga, chỉ cách biên giới Phần Lan 60 km, tính từ tháng 02 đến nay, hơn 130 lán trại quân đội đã được dựng lên. Khu vực này trước năm 2022 chưa được phát triển, nhưng đến nay dường như có khả năng làm nơi trú đóng cho 2.000 binh lính. Một ví dụ khác, ở Petrozavodsk, có 3 nhà kho lớn đã được xây dựng, mỗi nhà kho có thể chứa được khoảng 50 xe bọc thép. Từ tháng 04, nhà kho thứ tư cũng đang được Nga xây dựng. Xa hơn về phía bắc, gần Vòng Bắc Cực, căn cứ trực thăng Severomorsk-2, cũng đang trong quá trình cải tạo. Từng bị đóng cửa vào năm 1998, căn cứ này được đưa trở lại hoạt động từ năm 2022. Sử gia quân sự người Phần Lan, Emil Kastehelmi, thành viên nhóm phân tích Hắc Điểu - « Black Bird Group » - được trang mạng France 24 ngày 20/05 trích dẫn, cho biết là ban đầu Nga chỉ bố trí 1 đơn vị drone ở đó, nhưng sau này đã khôi phục căn cứ trực thăng. Điều này dường như cho thấy Nga muốn tăng cường hoạt động của mình trong khu vực. Nga - Kẻ thù quá khứ và kẻ địch tương lai của Phần Lan ? Đối với Phần Lan, Nga là kẻ thù cả trong quá khứ và cho tương lai, nên chính quyền Helsinky trong thời gian đã tích cực hiện đại hóa quân sự. Helsinky đặc biệt muốn tăng chi tiêu quốc phòng, đặt mục tiêu là đến năm 2029, chi tiêu quân sự sẽ đạt 3% GDP. Helsinky cũng đang cân nhắc nâng độ tuổi của quân dự bị động viên lên 65 tuổi, nhằm đạt chỉ tiêu đến năm 2031 có 1 triệu người có thể tòng quân, tương đương gần 1/5 người dân Phần Lan. Đầu tháng Tư vừa qua, thủ tướng Phần Lan Petteri Orpo cũng tuyên bố Helsinki sẽ rút khỏi Hiệp ước Ottawa về cấm mìn sát thương cá nhân mà Helsinki đã ký kết hồi năm 2012. Tất cả là để chuẩn bị cho khả năng đối phó nếu chiến tranh xảy ra. Quân đội Phần Lan không chỉ được trang bị tốt mà còn đông đảo về quân số. Vẫn theo France 24, nếu chiến tranh nổ ra, Phần Lan có thể huy động ngay 284.000 binh sĩ, nhiều hơn cả Anh hoặc Pháp. Chuyên gia Ed Arnold, thuộc cơ quan nghiên cứu an ninh RUSI của Anh, nhấn mạnh : Với lực lượng pháo binh mạnh nhất Liên Âu và kho dự trữ vũ khí và đạn lượng vô cùng lớn, Phần Lan có thể là một trong những nước thành viên NATO có năng lực quốc phòng tốt nhất. Chính vì thế, sẽ là điều dại dột nếu như Nga bắt đầu chiến dịch quân sự chống NATO bằng cách tấn công trước hết vào Phần Lan. Trước mối đe dọa quân sự từ Nga, một lữ đoàn của Đức được triển khai tại Litva Vẫn ở sườn đông NATO, nhìn sang Litva, hôm thứ Năm 22/05, thủ tướng Đức Friedrich Merz đích thân sang Vilnus vào đúng ngày một lữ đoàn của Đức chính thức được triển khai tại Litva, gần 3 năm sau khi quyết định được thông qua trên giấy tờ. Từ Vilnius, thông tín viên Marielle Vitureau gửi về bài tường trình : « Những người lính đầu tiên của các tiểu đoàn hỗ trợ hậu cần và quân y đã đến từ đầu tháng Tư. Hiện giờ, lữ đoàn có 350 binh lính, đến cuối năm 2027, quân số sẽ lên tới 5.000 người. Đây là một dự án khổng lồ đối với đất nước Litva. Orijana Masale, thứ trưởng Quốc Phòng Litva, nói : « Sẽ phải xây dựng 402 tòa nhà làm nơi đóng quân cho lữ đoàn và để làm điều này, sẽ cần khoản đầu tư khoảng 1,8 tỷ euro ». Những doanh trại quân đội mới sẽ mọc lên. Các sân tập mới sẽ được xây dựng, tất cả đều vì một mục đích duy nhất. Thứ trưởng Orijana Masale khẳng định : « Mọi khoản đầu tư vào quốc phòng và lữ đoàn này đều nhằm tăng cường khả năng răn đe của chúng ta, chúng ta muốn hòa bình ». Ở Đức, có một sự thay đổi cũng đang diễn ra. Dân biểu Roderich Kiesewetter, thành viên Ủy ban Đối ngoại, phát biểu : « Nước Đức đã rút ra được một bài học từ lịch sử. Đã có 11 nước thành viên NATO hiện diện cho đến năm 1990 để bảo vệ chúng ta. Còn bây giờ, chúng ta phải chung tay bảo vệ các quốc gia trước đây nằm phía sau Bức màn sắt ». Litva đang chờ đợi các nước đồng minh NATO. Và nếu tình hình trở nên tồi tệ hơn trước khi lữ đoàn có khả năng hoạt động, theo dự kiến, một cơ chế hỗ trợ của một sư đoàn của Đức sẽ được kích hoạt ». « Ngoại giao nước » : Nước cờ mới trong quan hệ Trung Quốc - Pakistan Chỉ ít ngày sau khi đụng độ vũ trang Ấn Độ - Pakistan lắng xuống, ngoại trưởng Pakistan, Ishar Dar, cũng là phó thủ tướng Pakistan, có chuyến thăm chính thức 3 ngày đến Trung Quốc, bắt đầu từ thứ Hai 19/05. Đây không phải là lựa chọn ngẫu nhiên. Theo giới quan sát, trong cuộc không chiến vừa qua với Ấn Độ, không ít lợi thế của Pakistan có được là nhờ nguồn vũ khí của Trung Quốc, nhất là phi cơ và drone. Thế nên, chuyến công du Bắc Kinh của ngoại trưởng Pakistan là cách để Islamabad bày tỏ lòng biết ơn đối với Trung Quốc, nhà xuất khẩu vũ khí lớn của Pakistan. Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Stockholm, được AFP ngày 23/05 trích dẫn, 63% vũ khí của Pakistan là mua từ Trung Quốc. Islamabad cũng khẳng định là chính các chiến đấu cơ của Pakistan do Trung Quốc sản xuất đã hạ được các máy bay của Ấn Độ trong cuộc không chiến đêm 06 rạng sáng 07/05. Tiếp đồng nhiệm Pakistan hôm 20/05, ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị khẳng định Islamad có thể tin cậy vào tình bằng hữu của Bắc Kinh, bất chấp thử thách, để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Có thể hiểu là nếu đụng độ với Ấn Độ lại xảy ra ở vùng Cashmir, Bắc Kinh sẽ vẫn đồng hành với Islamabad. Không chỉ có vũ khí, Trung Quốc còn có thể dùng nguồn nước để hỗ trợ Pakistan trong xung đột với Ấn Độ. Xin nhắc lại là trong quan hệ với Ấn Độ, nguồn nước vẫn là một điểm yếu của Pakistan. Giới quan sát vẫn nói đến nguy cơ tiềm ẩn về một cuộc « chiến tranh nước » giữa Ấn Độ và Pakistan. Ngay sau vụ tấn công khủng bố hôm 22/04 mà New Delhi cho là có sự tiếp tay của Islamabad, New Delhi tuyên bố rút khỏi hiệp ước chia sẻ nguồn nước đã ký kết hồi năm 1960 với Pakistan. Đến ngày 06/05, thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi thông báo ý định cắt nước của các con sông bắt nguồn từ Ấn Độ và là nguồn cấp nước cho Pakistan. Islamabad cũng tố cáo Ấn Độ thay đổi lưu lượng dòng chảy của sông Chenab, một trong ba con sông được quy định trong khuôn khổ hiệp ước. Vấn đề là nông nghiệp của Pakistan phụ thuộc đến gần 80% vào nguồn nước từ Ấn Độ. Để giải tỏa nỗi lo của Islamabad, Trung Quốc đã hứa sẽ đẩy nhanh tiến độ hoàn thành xây dựng đập lớn « Dự án thủy điện Mohmand », với nhà máy thủy điện công suất 800 megawatt tại tỉnh Khyber Pakhtunkhwa ở miền tây bắc đất nước. Đây là một dự án quan trọng đối với Islamabad, giúp Pakistan tự chủ hơn trước Ấn Độ về nguồn nước, khiến bất kỳ mối đe dọa nào từ Ấn Độ về nguồn nước sẽ trở nên vô nghĩa đối với Pakistan. Bị cấm tuyển sinh quốc tế : Tổn thất mới của đại học Havard trong trận chiến với chính quyền Donald Trump Sau khi cắt khoản tài trợ liên bang 2,7 tỉ đô la, chiến dịch của chính quyền Donald Trump nhắm vào Harvard, trường đại học tư danh giá hàng đầu của Mỹ, lại sang một chương mới : Ngày 22/05/2025, chính quyền Trump quyết định cấm đại học Harvard tuyển sinh viên ngoại quốc. Lần này, theo AFP, không chỉ lên án đại học Harvard tạo thuận lợi cho nạn bạo lực, bài Do Thái, trong thư gửi đến lãnh đạo trường, bộ trưởng An ninh Nội địa Mỹ, Kristi Noem còn quy kết Harvard cho phép sinh viên nước ngoài chống Mỹ, ủng hộ khủng bố và hợp tác với đảng Cộng Sản Trung Quốc. Tối hậu thư của chính quyền Mỹ : Nếu Harvard muốn được khôi phục « đặc quyền », trường phải cung cấp trong vòng 72 giờ hàng loạt thông tin họ có về các hoạt động của sinh viên nước ngoài trong 5 năm qua mà chính quyền cho « bất hợp pháp ». Trên thực tế, đâu là lý do khiến Harvard bị Donald Trump đặc biệt nhắm đến ? Trên đài RFI Pháp ngữ, giảng viên Jérôme Viala-Godefroy, đại học Khoa học Chính trị Sciences Po, ở Saint-Germain en Laye, Pháp, chuyên về chính trị Mỹ, tác giả cuốn sách « Ngôn từ của Trump » (NXB Dalloz), giải thích : « Đây là một trong những trường đại học quan trọng nhất, giàu nhất và lâu đời nhất tại Hoa Kỳ. Nếu một trường đại học có thế mạnh như vậy không thể chống đỡ được, điều đó có nghĩa là tất cả các đại học khác, với ít nguồn lực hơn, có nguy cơ phải làm theo những gì đã mà đại học này thực hiện, như trường Columbia ở New York đã phải chấp nhận đáp ứng các yêu cầu của tổng thống Donald Trump ». Quyết định của chính quyền bị lãnh đạo đại học Harvard xem là « bất hợp pháp ». Theo nhận định của giảng viên Jérôme Viala-Godefroy, việc tổng thống Mỹ Donald Trump mạnh tay sử dụng biện pháp mang tính áp đặt cho các trường như vậy là rất nguy hiểm đối với nền dân chủ : « Đúng vậy, điều này cực kỳ nguy hiểm vì nó không được tiến hành theo quy trình thông thường. Thường thì có một quy trình, đặc biệt là theo 2 đạo luật. Đó là những đạo luật, ví dụ nhằm ngăn chặn sự phân biệt đối xử trong các trường đại học (…) Có những cáo buộc, nhất là về chủ nghĩa bài Do Thái, nhắm vào đại học Columbia và Harvard. Nhưng có một quy trình, nghĩa là nếu đó đúng là lý do duy nhất, thì phải giải quyết thông qua các tòa án. Ngoài ra, cũng có thể có những thỏa thuận. Điều này cần phải có thời gian và trên hết là một quy trình rất cụ thể. Thế nhưng, những gì đang diễn ra lại không được thực hiện theo đúng quy trình đó. Mọi người thấy rõ là thực sự trong chuyện này còn có một điều gì khác nữa ». Theo quyết định của bộ An ninh Nội địa Mỹ, các sinh viên ngoại quốc của đại học Harvard có thời hạn đến tháng 08/2025 để chuyển trường. Quyết định mới này có liên quan đến khoảng 6.800 sinh viên (1/4 tổng số sinh viên của Harvard). Vậy giới sinh viên quốc tế ở đại học Harvard phản ứng thế nào ? Marc Sabatier Hvidkjear, một nghiên cứu sinh mang 3 quốc tịch Mỹ - Pháp và Đan Mạch, dù không liên quan đến quyết định này, nhưng cho biết trên đài RFI Pháp ngữ ngày 23/05 là nhiều sinh viên đang rất lo sợ cho tương lai của họ và của trường : « Phản ứng đầu tiên có lẽ là thấy hơi khó tin. Chúng tôi không thể tin rằng chuyện này lại xảy ra. Ở trường Kennedy (thuộc đại học Harvard), nơi tôi có bạn bè, nhiều người đã bật khóc ngay lập tức. Liệu ngay ngày mai người ta có đến và buộc họ rời đi hay không ? Thực ra quyết định chỉ bắt đầu có hiệu lực vào tháng 8, nhưng có những người đang nghĩ điều gì sẽ xảy ra với trường đại học có thể mang lại cho họ những cơ hội độc nhất vô nhị. Đây là một trong những trường đại học tốt nhất thế giới. Có nhiều người theo học sau này sẽ trở thành các nhà lãnh đạo quốc tế. Một phần rất lớn của quyền lực mềm của Mỹ là ở đây. Các sinh viên nước ngoài là nguồn tài nguyên trí tuệ lớn lao để tạo lập những trung tâm nghiên cứu tốt nhất thế giới. Tất nhiên, còn có khía cạnh tài chính nữa, bởi vì sinh viên nước ngoài đóng góp nhiều kinh phí. Điều này rất quan trọng đối với năng lực kinh tế của đại học Harvard. Về kinh tế, đại học Harvard đang trong tình trạng khó khăn ».…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Nhiệm kỳ 2 của TT Mỹ Donald Trump : Đã hết thời thủ tướng Israel Netanyahu « muốn gì được nấy » ? 10:35
10:35
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked10:35
Lần đầu công du nước ngoài kể từ khi trở lại Nhà Trắng, tổng thống Mỹ Donald Trump tuần này đã có vòng công du 3 nước đồng minh Vùng Vịnh : Ả Rập Xê Út, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất và Qatar. Ngoài việc ký kết các hợp đồng lớn về hàng không, quốc phòng … ông Trump cũng bàn với các nhà lãnh đạo về những hồ sơ ngoại giao quan trọng trong khu vực, như hạt nhân Iran, đàm phán ngừng bắn với lực lượng Houthi Yemen, chiến tranh Gaza, tình hình Syria. Đặc biệt, sau 25 năm, lần đầu tiên một vị tổng thống Mỹ gặp gỡ một vị tổng thống Syria, nhất là khi tổng thống lâm thời Syria Ahmad Al Sharaa trước đây có tên trong danh sách khủng bố của Mỹ. Syria cũng được tổng thống Mỹ Donald Trump dỡ bỏ lệnh trừng phạt. Điều gây ngạc nhiên là đồng minh Israel lại hoàn toàn bị tổng thống Mỹ phớt lờ, trong khi tổng thống Trump ở nhiệm kỳ đầu đã cho Netanyahu hầu như mọi thứ theo ý của thủ tướng Israel, kể cả việc chuyển đại sứ quán Mỹ từ Tel Aviv đến Jerusalem. Đối với truyền thông Israel, rõ ràng là giờ đây tổng thống Mỹ Donald Trump đang mất kiên nhẫn với Tel Aviv, và nhất là với thủ tướng Benyamin Netanyahu. Về phía Tel Aviv, chính quyền Netanyahu ngày càng cảm thấy bị gạt ra bên lề các quyết định của chính quyền Donald Trump. Chính sách « Nước Mỹ là trên hết » và các mối ưu tiên của chính phủ Israel dường như ngày càng bớt tương thích với nhau. Từ Jerusalem, thông tín viên Michel Paul ngày 14/05/2025 cho biết thêm : « Có những dấu hiệu căng thẳng gia tăng trong những tuần gần đây. Các cuộc đàm phán trực tiếp giữa Hoa Kỳ và Hamas đã dẫn đến việc con tin song tịch Mỹ - Israel, Edan Alexander, được thả. Ngoài ra Mỹ còn đàm phán với Iran về hạt nhân, ngừng bắn với phiến quân Houthis Yemen trong khi phe nổi dậy này vẫn tiếp tục tấn công Israel. Và thêm một thất bại mới nhất cho Israel : Donald Trump dỡ bỏ lệnh trừng phạt Syria, chấp nhận gặp tổng thống lâm thời al-Sharaa, nhưng lại gạt Israel ra khỏi chuyến công du Trung Đông của ông. Liệu đây có phải là hồi kết của tuần trăng mật giữa Israel và tổng thống Mỹ Donald Trump hay không ? Không, Benjamin Netanyahu tuyên bố như vậy. Ông nói rằng đó chỉ là trò dàn dựng của các phương tiện truyền thông. Nhưng ít nhất có một vị bộ trưởng, vốn nổi tiếng với những tuyên bố thẳng thắn, đã tiết lộ những gì đảng Likud của Netanyahu nghĩ về ông Donald Trump. David Amsalem là bộ trưởng chuyên trách về hợp tác trong khu vực. Ông nói : « Họ cho rằng ông ấy (tức tổng thống Mỹ Donald Trump) là người khó đoán định. Mỗi sáng, khi thức dậy, ông ấy lại có một ý kiến khác, và chủ đề nào cũng làm cả thế giới phải bối rối. Tôi nghĩ rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng và phá vỡ mọi quy tắc từ trước tới giờ vẫn luôn chi phối mối quan hệ giữa Israel và Hoa Kỳ ». Donald Trump muốn rằng cuộc chiến ở Gaza, mà ông mô tả là tàn khốc, phải chấm dứt. Về phần mình, thủ tướng Israel đáp trả : « Sẽ không có tình huống nào khiến chúng tôi phải dừng cuộc chiến ». Và ông nhấn mạnh : « Quân đội Israel sẽ tiến vào dải Gaza « với toàn thể sức mạnh » trong những ngày tới đây. Và điều này có nguy cơ gây ra một cuộc khủng hoảng mở giữa Israel và Hoa Kỳ ». Đàm phán Nga - Ukraina : Thổ Nhĩ Kỳ và kỳ vọng tạo dấu ấn trên sân khấu ngoại giao thế giới Ngoài vòng công du vùng Vịnh của tổng thống Mỹ Donald Trump, thỏa thuận Mỹ - Trung giảm 115% thuế suất trừng phạt đối ứng trong vòng 90 ngày, diễn đàn ngoại giao Trung Quốc với Cộng đồng các nước Mỹ Latinh và vùng Caribê (CELAC) để tăng cường hợp tác trước đòn thuế quan của Trump, tuần này, truyền thông quốc tế và giới quan sát cũng hướng về Thổ Nhĩ Kỳ, nơi được kỳ vọng diễn ra cuộc đàm phán trực tiếp giữa tổng thống Nga Putin và tổng thống Ukraina Zelensky để sớm chấm dứt chiến tranh Ukraina. Một hôm sau khi tổng thống Pháp, thủ tướng Anh, Đức và Ba Lan hôm 10/05 đến thăm Kiev, gây áp lực với Nga buộc Matxcơva chấp nhận một « lệnh ngừng bắn vô điều kiện » trong vòng 30 ngày bắt đầu từ thứ Hai 12/05, tổng thống Nga Vladimir Putin hôm 11/05 đã đề xuất đàm phán « trực tiếp » và « vô điều kiện » giữa Nga và Ukraina vào ngày 15/05 tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky cho biết « sẵn sàng » đàm phán trực tiếp với Putin, nhưng với điều kiện phải đạt được lệnh ngừng bắn trước đó. Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng tuyên bố có thể đến Istanbul. Nhưng kỳ vọng không thành : lệnh ngừng bắn không được ban bố, mà tổng thống Nga Putin cũng không đích thân sang Thổ Nhĩ Kỳ đàm phán, chỉ cử một phái đoàn đi. Và cuối cùng, đàm phán trực tiếp của hai phái đoàn Nga - Ukraina, thiếu vắng cả hai vị tổng thống Putin à Zelensky, diễn ra ngày 16/05, và trên thực tế gồm 2 cuộc đàm phán : Ukraina - Mỹ - Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraina - Nga - Thổ Nhĩ Kỳ. Dẫu sao thì đối với Thổ Nhĩ Kỳ, nước được Putin đề xuất làm nơi diễn ra đàm phán Nga - Ukraina, đây là một cơ hội của tổng thống Recep Tayyip Erdogan tái khẳng định dấu ấn trên trường quốc tế. Từ Ankara, thông tín viên Anne Andlauer ngày 11/05 giải thích thêm về những nỗ lực của tổng thống Erdogan : « Đây là thời điểm mà tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan đã chờ đợi từ 3 năm nay, kể từ sau thất bại của các cuộc đàm phán trực tiếp giữa Nga và Ukraina qua cầu truyền hình và cũng diễn ra ở Thổ Nhĩ Kỳ. Các cuộc đàm phán đó làm nảy sinh hy vọng về hòa bình, nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm lại được. Vào thời điểm đó, Kiev và Matxcơca thông báo đã nhất trí được với nhau về một văn bản chung. Văn bản này chưa bao giờ được công bố, nhưng sau đó chúng tôi biết được, thông qua các thông tin rò rỉ cho báo chí, rằng lẽ ra họn đã có thể chấm dứt xung đột bằng cách Ukraina tuyên bố trung lập để đổi lấy các đảm bảo về an ninh. Thất bại nói trên vẫn luôn khiến tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan như mắc nghẹn ở cổ. Nhất là vì một năm sau đó, thỏa thuận về ngũ cốc ở Biển Đen, được ký kết tại Istanbul vào tháng 07/2022, cũng lại thất bại. Kể từ đó, người đứng đầu nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ chưa bao giờ ngừng thể hiện thiện chí, ông đã vài chục lần tuyên bố sẵn sàng tổ chức các cuộc đàm phán mới tại đất nước mình để vun đắp mối quan hệ với tổng thống Nga Vladimir Putin, cũng như với đồng nhiệm Ukraina Volodymyr Zelensky. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi Tayyip Erdogan có phản ứng gần như ngay lập tức với đề xuất của tổng thống Nga về việc nối lại các cuộc đàm phán bị gián đoạn ở Istanbul. Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ muốn tin rằng sẽ có một « bước ngoặt lịch sử », ông nói đến một « cơ hội cần nắm lấy ». Đó là một cơ hội cho Ukraina và Nga, những cũng là một cơ hội cho Thổ Nhĩ Kỳ. Ankara đã mơ ước suốt 3 năm nay rằng họ sẽ đóng vai trò quyết định trong việc chấm dứt cuộc xung đột giữa Nga và Ukraina. » Năng lượng tái tạo : Lượng khí thải của Trung Quốc giảm dù nhu cầu điện tăng Sự phát triển năng lượng tái tạo đã giúp Trung Quốc trong quý 1/2025 giảm 1,6% lượng khí CO2 phát thải ra bầu không khí so với cùng kỳ năm ngoái. Báo cáo của Trung tâm Nguyên cứu Năng lượng và Không khí sạch (CREA), trụ sở tại Phần Lan, công bố hôm 15/05. Theo giới chuyên môn, mức giảm này dù thấp nhưng có ý nghĩa đối với quá trình chuyển đổi năng lượng của Trung Quốc, nhất là trong bối cảnh nhu cầu điện trong nước vẫn tăng mạnh. Từ Bắc Kinh, thông tín viên Clea Broadhurst ngày 15/05 giải thích : « Sự thay đổi này đánh dấu một bước đột phá : trái ngược với những đợt giảm lượng khí phát thải trước đây do suy thoái kinh tế, lần này chính các năng lượng sạch, như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và năng lượng hạt nhân, đã cho phép Trung Quốc hạn chế sử dụng than đá. Nhờ vậy, Trung Quốc đã có thể ổn định, thậm chí giảm lượng khí thải, nhưng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng về điện. Đối với các chuyên gia, nếu xu hướng này tiếp diễn thì có thể sẽ dẫn đến mức cao đỉnh điểm thực sự, kéo theo đó là lượng khí phát thải liên quan đến năng lượng cũng sẽ giảm một cách có hệ thống. Sự thay đổi này đang được tăng tốc nhờ nhiều động lực : một chính sách mới về giá đang thúc đẩy các tác nhân trong lĩnh vực lắp đặt trang thiết bị năng lượng tái tạo trước khi chính sách có hiệu lực. Cuộc chiến thương mại do tổng thống Mỹ Donald Trump tái kích hoạt cũng củng cố sự thay đổi, hướng đến mô hình dựa vào tiêu dùng trong nước thay vì xuất khẩu ra nước ngoài. Thế nhưng, lượng khí phát thải của Trung Quốc cũng vẫn cao gần mức đỉnh điểm được ghi nhận gần đây nhất, tức là chỉ thấp hơn có 1%. Nói cách khác, đơn giản là chỉ cần một sự phục hồi trong ngành công nghiệp là đủ để đảo ngược xu hướng giảm phát thải này. Và những nỗ lực thì hiện giờ vẫn là chưa đủ để đạt được các mục tiêu khí hậu mà Thỏa thuận Paris đã đề ra cho năm 2030. Như vậy, dẫu đáng khích lệ nhưng đây vẫn là một tín hiệu mong manh. Thách thức thực sự đối với Bắc Kinh là làm sao để duy trì đà giảm khí thải này một cách bền vững, chứ không chỉ là những hiệu ứng mang tính hoàn cảnh ». Trung Quốc vốn là nước phát thải nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính nhất trên thế giới. Nhưng theo AFP, một nghiên cứu được công bố vào năm ngoái cho thấy Trung Quốc đã đầu tư mạnh vào năng lượng tái tạo, tạo dựng mạng lới với tổng công suất điện gió và điện mặt trời cao gần gấp đôi so với phần còn lại của thế giới cộng lại. Than đá vẫn chiếm một phần quan trọng trong cơ cấu năng lượng của Trung Quốc. Năm 2024, Trung Quốc xây dựng thêm các nhà máy nhiệt điện than với tổng công suất chiếm đến 93% tổng lượng toàn cầu năm ngoái. Tuy nhiên, vào tháng 04/2025, Bắc Kinh tuyên bố điện gió và điện mặt trời của Trung Quốc lần đầu tiên vượt quá công suất từ nhiệt điện than.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Kỷ niệm 80 năm chiến thắng Đức Quốc Xã : Vladimir Putin ngợi ca binh sĩ Nga chiến đấu tại Ukraina 14:30
14:30
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked14:30
Ngày 09/05/2025, tại thủ đô Matxcơva, Nga tổ chức cuộc diễu binh rầm rộ kỷ niệm 80 năm chiến thắng Đức Quốc Xã, với sự hiện diện của hơn 20 lãnh đạo quốc gia, trong đó có Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Brazil, Venezuela … Tổng thống Vladimir Putin bảo đảm rằng Nga « đã và sẽ là rào cản không thể phá hủy chống lại chủ nghĩa Quốc xã, bài Nga và bài Do Thái ». AFP trích hãng thông tấn nhà nước Nga, TASS, cho biết có khoảng 11.000 binh sĩ tham gia diễu binh, trong đó có 1.500 người từng chiến đấu ở Ukraina. Ngoài ra là binh lính từ 13 nước, gồm Việt Nam, Trung Quốc, Miến Điện, Ai Cập … Lễ kỷ niệm 80 năm chiến thắng Đức Quốc Xã, cũng là dịp để tổng thống Nga ngợi ca các binh sĩ Nga tham chiến ở Ukraina : « Toàn bộ đất nước, xã hội và người dân ủng hộ những người tham gia chiến dịch quân sự đặc biệt » ở Ukraina . Đối với Matxcơva, ngày 09/05 không chỉ là ngày kỷ niệm chiến thắng Đức Quốc Xã. Dưới thời Putin, 09/05 trở thành một trong những ngày lễ quan trọng nhất tại Nga và là dịp phô trương sức mạnh quân sự. Thậm chí ngày kỷ niệm chiến thắng Đức Quốc Xã còn mang tính biểu tượng hơn đối với Matxcơva kể từ khi Nga bắt đầu chiến dịch xâm lược Ukraina. Trang tin châu Âu Euronews ngày 05/05 nhắc lại là điện Kremlin sử dụng hình ảnh và câu chuyện về Đệ nhị Thế chiến để mô tả và bày tỏ sự ủng hộ cuộc chiến xâm lược Ukraina. Nga đã sử dụng một loạt khẩu hiệu và biểu tượng giống hệt những gì Liên Xô đã sử dụng trong Thế chiến II. Ví dụ những khẩu hiệu « Chúng ta có thể làm lại » hoặc « Chúng ta có thể lặp lại » đã được binh lính Nga sử dụng rộng rãi ở Ukraina. Tương tự, dải ruy băng St. George màu cam và đen, tượng trưng cho chiến thắng trong Đệ Nhị Thế chiến, cũng đã trở thành một trong những biểu tượng dễ nhận thấy nhất của cuộc chiến Nga xâm lăng Ukraina, được những người ủng hộ cuộc chiến của Nga đeo trên người. Matxcơva đã cố tình liên kết hai câu chuyện thông qua ngôn từ : ví dụ gọi cuộc chiến tranh xâm lược Ukraina là « một chiến dịch quân sự đặc biệt », theo cách gọi Đệ nhị Thế chiến là « Chiến tranh vệ quốc vĩ đại » ở Nga. Trên Diễn đàn đăng trên nhật báo Pháp Le Monde ngày 04/05, một tập thể các nhà sử học của châu Âu cũng đã lên án việc Matxcơva « bóp méo ký ức về Đệ nhị Thế Chiến để biện minh cho các hành động đáng ghê tởm nhất » của Nga tại Ukraina. Những thách thức lớn về đối nội - đối ngoại của tân giáo hoàng Lêô XIV Ngày 08/05/2025, sau hai ngày họp tại nhà nguyện Sistina, ở Vatican, Mật nghị Hồng y đã chọn được tân giáo hoàng. Hồng y người Mỹ, Robert Francis Prevost, 69 tuổi, với tông hiệu Lêô XIV, trở thành người kế nhiệm giáo hoàng Phanxicô. Lêô XIV cũng là vị giáo hoàng đầu tiên là người Mỹ. Hôm 09/05, Vatican thông báo nghi lễ nhậm chức của tân giáo hoàng diễn ra ngày 18/05. Trong lúc chờ đợi ngày quan trọng này, hãng tin Pháp AFP điểm lại những thách thức đang chờ đón vị giáo hoàng thứ 267, trong đó phải kể đến những thâm hụt tài chính, tình trạng giáo dân ngày càng ít đến nhà thờ và số người tu hành để trở thành linh mục ngày càng giảm … Chính giáo hoàng Lêô XIV, khi còn là hồng y Robert Francis Prevost, đã nhấn mạnh là Giáo hội « còn rất nhiều điều phải làm ». Trước hết, giáo hoàng Lêô XIV sẽ phải tái hòa hợp những luồng tư tưởng, văn hóa khác nhau trong Giáo hội, bởi vì 12 năm trị vì của Giáo hoàng Phanxicô, với tư tưởng cởi mở về xã hội, cũng chịu những chỉ trích gay gắt chưa từng có trong nội bộ Giáo hội. Một trong những hồ sơ nhạy cảm là nạn bạo lực tình dục. Bất chấp nhiều biện pháp của Giáo hội nhằm chống lại bạo lực tình dục, đặc biệt là đối với trẻ vị thành niên, nhưng các hiệp hội nạn nhân đã bày tỏ sự thất vọng, cho rằng giáo hoàng Phanxicô chưa có đủ hành động. Nhiều nước châu Á và châu Phi vẫn coi đây là đề tài cấm kỵ. Ở châu Âu, ngay cả Roma cũng chưa khởi động điều tra độc lập về nạn lạm dụng tình dục của giáo hội Ý. Về ngoại giao, vốn cũng là nguyên thủ quốc gia và là lãnh tụ tinh thần, giáo hoàng hoàng cũng sẽ phải thể hiện một tiếng nói có trọng lượng trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với nhiều cuộc xung đột lớn, từ Ukraina, Sudan, đến Gaza, bên cạnh đó là xu hướng phát triển của chủ nghĩa dân túy, những nguy cơ liên quan đến sự phát triển của trí tuệ nhân tạo và khủng hoảng sinh thái. Mối quan hệ với Washington sẽ được đặc biệt được công luận chú ý, bởi vì việc bầu hồng y người Mỹ, Robert Francis Prevost, làm giáo hoàng được một số người phân tích là cách Giáo hội giữ khoảng cách với chủ nghĩa dân tộc Cơ đốc giáo đang phát triển ở Hoa Kỳ. Ngoài ra là mối quan hệ tế nhị với chế độ cộng sản Trung Quốc. Đối thoại liên tôn giáo cũng là điều được giáo hoàng quan tâm. Theo AFP, giáo hoàng Lêô XIV dự kiến thảo luận về cuộc đối thoại với cả Hồi giáo và Do Thái giáo, trong khi quan hệ giữa Giáo hội với Israel gia tăng do chiến tranh Gaza. Quan hệ của Vatican với Giáo hội Chính thống giáo Nga tại Matxcơva cũng căng thẳng do chiến tranh Ukraina. Xung đột quân sự giữa Ấn Độ và Pakistan và nguy cơ xảy ra một cuộc « chiến tranh về nước » Không chỉ còn là những lời đe dọa suông, Ấn Độ và Pakistan, hai nước Nam Á, cựu thuộc địa của Anh, đã oanh kích lẫn nhau. New Delhi cho biết trong đêm 07/05, quân đội Ấn Độ đã oanh tạc và phá hủy 9 địa điểm của « lực lượng khủng bố » ở Pakistan. Pakistan ngay lập tức pháo kích đáp trả đối phương. Sau đó là đến các vụ đọ súng, tấn công qua lại bằng drone … Bất chấp lời kêu gọi đôi bên kiềm chế của quốc tế, từ Liên Hiệp Quốc, Mỹ, Liên Âu, đến Anh, Nga …, xung đột vũ trang ngày càng căng thẳng hai tuần sau khi xảy ra vụ tấn công khủng bố vào vùng Kashmir do Ấn Độ quản lý, khiến 26 người thiệt mạng, mà New Delhi quy trách nhiệm là do Islamabad đứng sau « giật dây ». Theo số liệu chính thức New Delhi và Islamabad công bố, đươc AFP trích dẫn, tính đến tối 08/05/2025, tổng cộng đã có 16 thường dân Ấn Độ và 37 người Pakistan thiệt mạng. Chưa dừng ở đó, theo bài tường trình sáng 09/05 của thông tín viên RFI Côme Bastin từ Bangalore, chính phủ Ấn Độ đang chuẩn bị tinh thần cho công chúng là cuộc chiến sẽ diễn ra với cường độ cao hơn. Tại nhiều bang ở vùng biên, người dân được di tản, các trường học bị đóng cửa … Hồi đầu tuần, tối 06/05, thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi thông báo ý định cắt nước của các con sông bắt nguồn từ Ấn Độ và là nguồn cấp nước cho Pakistan : « Trước đây, nước thuộc về Ấn Độ, chảy sang nước khác, nhưng nay dòng chảy sẽ được chặn lại để phục vụ lợi ích của Ấn Độ và sẽ được sử dụng cho Ấn Độ » Ấn Độ và Pakistan hồi năm 1960 từng ký kết một hiệp ước về chia sẻ nguồn nước. Hiệp ước trao cho New Delhi quyền sử dụng các con sông chung để xây đập hoặc trồng trọt, nhưng cấm Ấn Độ chuyển hướng dòng chảy hoặc thay đổi lượng nước ở hạ lưu. Ngay sau vụ tấn công khủng bố hôm 22/04, Ấn Độ đã rút khỏi hiệp ước. Đến ngày 06/05, Pakistan tố cáo Ấn Độ thay đổi lưu lượng dòng chảy của sông Chenab, một trong ba con sông trong được quy định theo hiệp ước nói trên. Theo các chuyên gia, dòng chảy của sông không thể bị gián đoạn trong thời gian dài. Tuy nhiên, theo Viện nghiên cứu Jinnah của Pakistan, được Le Figaro trích dẫn ngày 07/05, « ngay cả những thay đổi nhỏ về lịch trình - chứ chưa nói tới lượng nước - xả ra cũng có thể làm gián đoạn mùa gieo trồng và làm giảm năng suất nông nghiệp » ở Pakistan. Chính quyền Islamabad đã cảnh báo là mọi ý đồ phá vỡ dòng chay của những con sông này đều bị Pakistan xem là « hành vi chiến tranh ». Nước Pháp liệu có cạnh tranh được với các quốc gia Bắc Âu để thu hút các nhà khoa học của Mỹ ? Để thu hút các nhà khoa học quốc tế, nhất là các nhà nghiên cứu Mỹ, trong bối cảnh chính quyền Donald Trump cắt giảm ngân sách khoa học, ngày 05/05/2025, tổng thống Pháp Emmanuel Macron và chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Ursula von der Leyen tổ chức hội thảo “Choose Europe for Science” (Chọn châu Âu cho Khoa Học) tại đại học Sorbonne, Paris. Tham dự sự kiện có khoảng 800 người, trong đó có nhiều quan chức chính phủ Pháp, đại diện các trường đại học ở châu Âu và các ủy viên châu Âu. Bruxelles công bố khoản đầu tư 500 triệu euro để thu hút các nhà khoa học đến châu Âu. Paris chi 100 triệu euro để mời gọi các nhà khoa học đến làm việc. Điểm đáng chú ý, theo báo Pháp Libération là để nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước Pháp, các dự án của các trường đại học và tổ chức nghiên cứu phải tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên của chính phủ. Tuy nhiên, theo giới quan sát, Pháp không dễ thu hút thêm giới nghiên cứu quốc tế. Ngoài các lý do chủ quan, một trong những lý do khách quan là sự cạnh tranh từ nhiều nước châu Âu có tiềm lực khác, chẳng hạn các nước Bắc Âu, vốn nổi tiếng về chất lượng cuộc sống và chế độ đãi ngộ xã hội. Từ Stockholm, thông tín viên Ottilia Férey hôm 06/05/2025 điểm lại tình hình : “Chiến dịch quyến rũ được chính thức phát động tại Thụy Điển nói riêng và các nước Bắc Âu nói chung nhằm thu hút các nhà nghiên cứu người Mỹ đến đất nước họ. Tại một cuộc họp báo, bộ trưởng Giáo Dục Thụy Điển hứa hẹn với các nhà khoa học : “Chúng tôi có thể trao cho quý vị sự tin tưởng và đầu tư dài hạn”. Bộ trưởng Johan Pehrson nói tiếp : “Thụy Điển mở cửa chào đón các nhà nghiên cứu của Mỹ muốn thoát khỏi tình hình chính trị bất lợi. Các nhà nghiên cứu phải có thể tự lựa chọn đề tài, phát triển phương pháp của riêng họ và công bố kết quả nghiên cứu mà không bị giới hạn. Những điều các nhà nghiên cứu nên có là sự tự do, óc tìm tòi và biết gây đôi chút khó chịu. Các cánh cửa đang rộng mở. Trong giai đoạn từ tháng 01 đến tháng 03/2025, số nhà khoa học Mỹ nộp hồ sơ xin việc ở nước ngoài đã tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái. Và cũng phải nói rằng đang có sự cạnh tranh giữa các nước châu Âu để thu hút các nhà nghiên cứu đến từ nước Mỹ. Về phần mình, các nước Bắc Âu dựa vào kết quả xuất sắc của giới học giả và tính độc lập của các trường đại học, cũng như chất lượng cuộc sống và các phúc lợi xã hội, chẳng hạn như thời gian nghỉ phép sinh con và chăm sóc con thuộc loại dài nhất thế giới. Hội đồng nghiên cứu của Thụy Điển đã công bố khoản tài trợ 180.000 euro để trang trải chi phí tuyển dụng và lương cho các nhà khoa học. Hội đồng nghiên cứu của Na Uy thì công bố chương trình trị giá 8,5 triệu euro”. Chiến dịch trục xuất lớn chưa từng có tại Bồ Đào Nha Hồ sơ di dân vẫn là đề tài được quan tâm cả ở Mỹ và châu Âu. Tại Hoa Kỳ, sau khi Washington đã trục xuất 140.000 người kể từ tháng 01/2025 và trước khi mạnh tay thực hiện chiến dịch trục xuất ồ ạt, chính quyền của tổng thống Donald Trump thông báo mỗi di dân đang sinh sống bất hợp pháp tại Mỹ chủ động rời khỏi nước này được cấp 1000 đô là và vé máy bay. Tại Bồ Đào Nha, 2 tuần trước bầu cử lập pháp trước thời hạn, chính phủ hôm 04/05 cũng bất ngờ thông báo trục xuất 18.000 di dân không giấy tờ. Đây là một chiến dịch trục xuất lớn chưa từng có, nhắm tới tổng cộng 110.000 người. Hiện giờ, tại Bồ Đào Nha có 1,6 triệu người nhập cư, nhiều gấp 4 lần so với năm 2017. Từ Lisbonne, thông tín viên Marie Line Darcy ngày 04/05 gửi về bài tường trình : « Chiến dịch trục xuất di dân này ở Bồ Đào Nha xét về quy mô là chưa từng có. Trước mắt, có 18.000 người sắp bị trục xuất, trong đó có 4.500 người sẽ nhận được yêu cầu tự nguyện rời đi trong thời hạn 20 ngày. Chính phủ Bồ Đào Nha không có phương tiện đưa di dân sống bất hợp pháp đến biên giới, nên đặt cược vào thủ tục kêu gọi tinh thần tự giác. Theo nhà chức trách, đây chỉ là yêu cầu tôn trọng luật pháp. Thủ tục này chịu nhiều chỉ trích. Trước hết là từ phía các hiệp hội hỗ trợ di dân. Họ cho rằng Nhà nước phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra tình trạng này, vì AIMA, cơ quan di trú, nhập cư và tị nạn không thể quản lý mọi hồ sơ. Về chính trị, chính phủ cánh hữu bị chỉ trích mạnh mẽ về quyết định được đưa ra ngay trước khi khởi động chiến dịch bầu cử lập pháp trước thời hạn, dự kiến diễn vào ngày 18/05. Thủ tướng mãn nhiệm Luis Monténegro cũng là ứng viên muốn đạt được đa số tuyệt đối tại Quốc Hội. Theo những người chỉ trích ông, Luis Monténegro dường như đang tìm cách thu thu hút cử tri của đảng cực hữu Chega. Hiện giờ đảng Chega là lực lượng chính trị lớn thứ 3 cả nước, chỉ sau phe cánh hữu và đảng xã hội ». Pháp thắt chặt quy định cấp quốc tịch cho người nước ngoài Tại Pháp, số hồ sơ xin cấp quốc tịch đang còn tồn đọng là khoảng 290.000. Nhà chức trách dự báo sẽ cần thêm hơn 2 năm mới giải quyết hết số hồ sơ tồn đọng rất lớn này. Trong bối cảnh đó, bộ trưởng Nội Vụ Pháp Bruno Retailleau, thuộc phe cánh hữu, được biết đến là vị bộ trưởng rất cứng rắn về hồ sơ nhập cư, quyết định thắt chặt quy định cấp quốc tịch. Theo AFP, bộ trưởng Nội Vụ Pháp yêu cầu đẩy mạnh việc loại hồ sơ của những người không tôn trọng pháp luật, không đủ trình độ ngôn ngữ và văn hóa Pháp, cũng như những ai có thu nhập không đủ cao, có nguy cơ lệ thuộc vào trợ cấp xã hội. Ngày 05/05, bộ trưởng Bruno Retailleau phát biểu : « Nỗ lực đầu tiên, đó là phải tôn trọng luật pháp của chúng ta. Tôi cũng yêu cầu từ chối hồ sơ của những người nước ngoài trước đây đã từng cư trú trái phép. Tiếp theo, họ phải biết ngôn ngữ của chúng ta. Có một điều mới là từ ngày 01/01/2026 chúng tôi sẽ áp dụng quy định làm bài kiểm tra tư cách công dân để xem liệu người xin quốc tịch có kiến thức, hiểu biết về lịch sử đất nước và văn hóa của chúng ta hay không. Và cuối cùng là về việc làm, chúng tôi yêu cầu họ phải có hợp đồng lao động. Chúng ta cũng sẽ phải loại hồ sơ của những người mà đa phần thu nhập họ có được không phải là từ Pháp, bởi vì điều đó có nghĩa là các lợi ích, mối quan tâm chính của họ hướng ra nước ngoài chứ không phải là trên lãnh thổ quốc gia của chúng ta ».…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Việt Nam : Du lịch đánh thức di sản, bảo tồn ký ức chiến tranh 9:32
9:32
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked9:32
Địa đạo Củ Chi, phía bắc thành phố Hồ Chí Minh, thu hút 1,5 triệu khách tham quan hàng năm. Du khách vạch những tán lá, men theo con đường đất và dừng lại theo người hướng dẫn, gạt lớp lá dưới chân là một nắp hầm nhỏ. Ngạc nhiên và hào hứng, từng người lần lượt thử xuống hầm và đậy nắp theo hướng dẫn của hướng dẫn viên. Khám phá, trải nghiệm tại các khu chiến trường xưa là một phần không thể bỏ qua của du khách nước ngoài và ngày càng thu hút khách trong nước. Những ụ đất tưởng như tổ mối lại là lỗ thông hơi của địa đạo. Nhiều miệng hầm được nới rộng ra để thuận tiện cho du khách. Những người bị tim mạch, khó thở được khuyến cáo không nên xuống. Sau vài bậc thang bằng đất là đoạn đường hầm nhỏ, tối om, phải lom khom di chuyển. Những tiếng “òa” thở phào, sắc mặt đỏ bừng khi ra khỏi đoạn đường hầm cho thấy khó khăn như thế nào. Tất cả đều khâm phục và có chung câu hỏi : Dân quân kháng chiến Việt Nam đã sống trong đó thật sao ? Làm sao có thể trụ được trong thời gian dài như vậy ? Trải nghiệm “nếm mật, nằm gai” Anh Dương Phúc Sáng, nhà tổ chức tour tại Địa đạo Củ Chi, nhận định với hãng tin AP : “Đến Việt Nam, hầu như hơn 70% khách du lịch nước ngoài sẽ ấn tượng về chiến tranh Việt Nam. Và đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh mà tên gọi ngày xưa là Sài Gòn, họ tìm đến bảo tàng lịch sử đầu tiên, thứ nhì là Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, nơi ghi lại những kỷ niệm ngày xưa, thời chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ năm 1954 - năm 1975, 21 năm và đặc biệt là Địa đạo Củ Chi, nơi ghi dấu vùng đất anh hùng” . Đến khu nghỉ ngơi, du khách được thưởng thức khoai, sắn - lương thực chính của quân kháng chiến xưa. Lâu lâu lại có những tiếng nổ, tràng súng vẳng lại từ trường bắn nơi du khách có thể thử súng AK-47, M-16 và súng liên thanh M-60. Đối với du khách quốc tế, đó là trải nghiệm để hiểu hơn về hai cuộc chiến tranh ở Việt Nam, theo cảm nhận của Buono, một du khách Ý : “Đó có lẽ là một góc nhìn hay và tôi có thể hiểu rõ hơn một chút về những sự kiện, chiến tranh đã diễn ra như thế nào, dân tộc Việt Nam đã chiến đấu và tự vệ như thế nào. Và việc được tận mắt nhìn thấy có thể là một trải nghiệm sống và hiểu rõ hơn về cuộc chiến”. Hoặc như Paul Hazelton, một cựu chiến binh Mỹ tham chiến ở khu vực Huế năm 1965, trở lại chiến trường xưa để thấy được những thay đổi ngày nay : “Đó là một vùng chiến sự khi tôi ở đây trước đây và chưa phát triển. Chúng tôi không có bất kỳ tòa nhà cao tầng nào. Đó là một thị trấn xinh đẹp bên dòng sông Hương. Tôi may mắn có cơ hội nhìn thấy thành cổ khi tôi ở đó vào lúc trước. Nhưng mọi nơi bạn đến đều là những khu vực bị quân đội chúng tôi (Mỹ) kiểm soát và bây giờ chỉ thấy sự hối hả, nhộn nhịp cùng ngành công nghiệp thì thật là ấn tượng. Tôi vui mừng rằng nước Mỹ chúng tôi đang giao thương và có quan hệ hữu nghị với Việt Nam và tôi nghĩ cả hai bên đều được hưởng lợi từ điều đó” . Nhiều công ty, văn phòng lữ hành ở nước ngoài tổ chức tour dành riêng trải nghiệm về Chiến tranh Việt Nam. Ví dụ, tour 16 ngày của công ty Leger Battlefields ở Anh “bắt đầu hành trình ở Hà Nội đến thành phố Hồ Chí Minh, ghé thăm những địa điểm như Vịnh Hạ Long, Huế, Hội An và Điện Biên Phủ. Thảo luận về các chủ đề như chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, vụ thảm sát Mỹ Lai, ghé thăm các địa điểm chiến trường bao gồm Bãi biển Đỏ số Hai (Đà Nẵng), trận Ấp Bắc và Địa đạo Vịnh Mốc. Thăm các nghĩa trang và bảo tàng giúp tăng thêm trải nghiệm và hình dung những con người chiến đấu ở đó đã trải qua suốt 19 năm Chiến tranh Việt Nam” . (1) Du lịch đánh thức di sản Du lịch lịch sử-chiến tranh được coi là cấu phần quan trọng của loại hình du lịch ngược về quá khứ để tham quan và trải nghiệm. Xu thế này đã được phát triển ở nhiều nước trên thế giới, theo tiến sĩ Nguyễn Thu Hạnh, chủ tịch kiêm giám đốc Liên hiệp Khoa học phát triển du lịch bền vững (STDe), được báo Nhân Dân trích dẫn ngày 14/10/2023. Việt Nam cũng chủ trương dùng du lịch để đánh thức di sản trong những năm gần đây. Hình ảnh những chiến trường xưa gắn liền với đau thương, mất mát nhưng cũng là cách truyền tải đi vào lòng người nhất cho thế hệ trẻ với những cách tiếp cận sáng tạo hơn, đa dạng hóa trải nghiệm, không còn khô cứng, nhàm chán như trước. Nhiều trang web du lịch thống kê “những di tích chiến tranh nên một lần ghé qua” , có tham quan danh làm thắng cảnh, có du lịch trải nghiệm, có du lịch tâm linh. Là một cựu chiến binh, hiện 68 tuổi, sống ở Hà Nội, ông Lê Quang Bình dành nhiều thời gian từ khi nghỉ hưu đi thăm những địa danh chiến trường xưa. Theo ông, nếu đến Hà Nội, không thể bỏ qua Hoàng Thành Thăng Long, nơi đặt Tổng hành dinh của Quân đội Việt Nam, với dấu ấn của tướng Giáp và đặc biệt là Nhà tù Hỏa Lò, được mệnh danh “Hilton Hà Nội”: “Nhà tù Hỏa Lò nằm trên vị trí trung tâm của thủ đô, nơi thu hút một lượng lớn khách du lịch nội địa và khách quốc tế. Đây cũng là điểm đến lịch sử văn hóa cho mọi du khách, cho những người yêu lịch sử. Chúng ta có thể trải nghiệm qua các câu chuyện lịch sử, qua lời kể của những cựu chiến binh hoặc những người tù chính trị. Du khách sẽ thấy hệ thống trưng bày thường xuyên bằng những bài thuyết minh, trưng bày phù hợp với từng lứa tuổi. Nội dung lịch sử được truyền tải tới du khách qua lời dẫn chuyện, thuyết minh kết hợp với âm thanh sống động, phù hợp, tái hiện lại những nội dung trưng bày giúp công chúng có cái nhìn chi tiết trong từng giai đoạn lịch sử đấu tranh cách mạng của đất nước. Mỗi không gian, chủ đề trưng bày có nhiều hiện vật, nhiều tài liệu chứng minh. Nhà tù Hỏa Lò thực sự cuốn hút du khách, giúp du khách trong và ngoài nước hiểu rõ hơn về lòng yêu nước, sự dũng cảm, ý chí kiên cường của những chiến sĩ cách mạng trong lao tù” . Nhiều trang web hướng dẫn du lịch giới thiệu Di tích Nhà tù Hỏa Lò là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Hà Nội để có thể tìm hiểu về quá khứ đầy biến động của Việt Nam, cũng như sức mạnh tinh thần của con người. Từ nhiều năm nay, khu di tích tổ chức nhiều hoạt động trải nghiệm để thu hút giới trẻ quan tâm hơn đến lịch sử, theo giải thích của ông Lê Quang Bình : “Nhà tù Hỏa Lò được xếp hạng di tích quốc gia. Mọi người đến tham quan có thể trải nghiệm tour “Đêm thiêng liêng” ở nhà tù Hỏa Lò, trưng bày “Chắp cánh ước mơ” cũng tại Di tích Nhà tù Hỏa Lò hoặc trải nghiệm “Đêm Di tích”. Gần đây giới trẻ của thủ đô và cả nước cũng đến tham quan di tích ngày càng đông”. Di tích chiến tranh trải dài từ Bắc xuống Nam vì tất cả các vùng đất ở Việt Nam đều gắn với hai cuộc chiến tranh lớn. Ở miền núi phía Bắc có các khu di tích lịch sử Tân Trào, Pác Pó, nhà tù Sơn La, quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ. Ông Lê Quang Bình giải thích : “Khi tôi trở lại thăm Điện Biên Phủ, đó là một khu di tích, không gian lịch sử. Chiến trường Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Điện Biên Phủ là một trong hơn 100 di tích lịch sử quốc gia trên cả nước, đóng vai trò quan trọng cho việc phát triển du lịch của Điện Biên. Bây giờ, Điện Biên Phủ đã trở thành một khu di tích, khách tham quan đến đồi A1 hoặc các sở chỉ huy của tướng Giáp. Chúng tôi cũng chụp ảnh lưu niệm, đi tham quan và cảm thấy tự hào mình là một người Việt Nam, đất nước anh hùng và con người cũng anh hùng” . Chuyên nghiệp hóa ngành du lịch Sản phẩm du lịch văn hóa và lịch sử đóng góp khoảng 41% vào GDP ngành du lịch của thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 56% khách quốc tế và 28% khách nội địa quan tâm đến loại hình này, với 58% du khách đến thành phố Hồ Chí Minh mong muốn có thêm nhiều sản phẩm văn hóa hơn, nhấn mạnh nhu cầu ngày càng tăng đối với các trải nghiệm văn hóa đa dạng và phong phú. (2) Một số điểm du lịch nổi bật như Địa đạo Củ Chi, Dinh Độc Lập đều thu hút hơn 1 triệu lượt khách trong năm 2024. Kết quả này cho thấy các di tích lịch sử góp phần vào sự phát triển bền vững của du lịch thành phố Hồ Chí Minh. Lễ kỉ niệm 50 năm thống nhất Việt Nam ngày 30/04/2025 là một ví dụ cho việc kết hợp sự kiện lịch sử và du lịch. Hàng triệu người đổ về khu vực trung tâm thành phố Hồ Chí Minh kích thích tiêu dùng, dù trong thời gian ngắn. Nhiều người sẵn sàng di chuyển từ xa để được chứng kiến sự kiện. Khai thác ký ức chiến tranh thành thế mạnh du lịch đang được chính phủ Việt Nam chủ trương thực hiện. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, du lịch chiến tranh hiện vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Hạn chế lớn nằm ở cơ sở hạ tầng yếu kém, dịch vụ thiếu đồng bộ, cách truyền tải nội dung đơn điệu, và thiếu đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp. Nhiều điểm di tích vẫn chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, hiệu quả khai thác còn thấp. Để phát triển bền vững, ngành du lịch cần chiến lược đầu tư dài hơi, chú trọng bảo tồn di tích, tích hợp công nghệ hiện đại như trải nghiệm thực tế ảo, mở rộng các hoạt động trải nghiệm đặc thù như “ngủ hầm, ăn cơm nắm, đánh trận giả” , nâng cao năng lực của người thuyết minh, tránh thương mại hóa phản cảm. Ngoài gìn giữ lịch sử, việc biến những ký ức chiến tranh thành sản phẩm du lịch đặc thù là hướng đi giàu tiềm năng để nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trên thế giới. Hiện tại, du lịch là một trong những động cơ chủ đạo cho tăng trưởng của Việt Nam và sử dụng 1/9 lao động trên cả nước. Năm 2024, Việt Nam đón tiếp hơn 17,5 triệu du khách nước ngoài, gần với mức kỷ lục 18 triệu người vào năm 2019, trước đại dịch Covid-19. ***** (1) Vietnam War (2) Tiến sĩNguyễn Thị Phượng, “Nghiên cứu phát triển bền vững du lịch di tích lịch sử ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” , Quản lý Nhà nước , ngày 06/01/2025.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Bang giao quốc tế náo loạn trong 100 ngày đầu nhiệm kỳ TT Trump 9:40
9:40
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked9:40
Các đồng minh của Mỹ mất phương hướng. Chính quyền Trump gây sức ép với Kiev, chiều ý Matxcơva để đạt được một thỏa thuận ngừng bắn cho Ukraina nhưng kết quả không nhiều. 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, chất độc da cam vẫn hành hạ hàng triệu người Việt Nam vào lúc Hoa Kỳ ngừng chính sách viện trợ quốc tế làm tê liệt các chương trình hỗ trợ tẩy chất độc dioxin. Tham gia chính quyền, Elon Musk đang bị gạt dần ra ngoài tập đoàn Tesla do chính ông sáng lập. Ngày 30/04/2025 đánh dấu 100 ngày nhiệm kỳ 2 của tổng thống Mỹ Donald Trump. 100 ngày làm chao đảo bang giao quốc tế khi mà lãnh đạo Nhà Trắng lặp đi lặp lại đòi hỏi chủ quyền với Canada sát cạnh, với đảo Groenland vùng tự trị đặt dưới quyền kiểm soát của Đan Mạch hay đòi Panama « trả lại » cho nước Mỹ con kênh mà Hoa Kỳ đã « tốn nhiều công của » để rồi cho Trung Quốc hưởng lợi. Từng hứa hẹn « giải quyết chiến tranh Ukraina trong 24 giờ » tổng thống Trump đối mặt với thực tế : 100 ngày từ khi ông trở lại lãnh đạo đất nước, Ukraina vẫn chưa im tiếng súng. Đàm phán với Nga chấm dứt chiến tranh Ukraina : Putin không nhượng bộ bất kỳ điều gì. Chỉ còn đọng lại hình ảnh cuộc đấu khẩu nẩy lửa tại Nhà Trắng với tổng thống Ukraina hôm 28/02/2025 để rồi ông Volodymyr Zelensky bỏ dở cuộc họp mà hậu quả kèm theo là phải đến 2 tháng sau, ngày 30/04/2025 thỏa thuận khoáng sản Mỹ-Ukraina mới được ký kết. Trong khi đó, cộng đồng quốc tế bất ngờ vì cuộc điện đàm hôm 18/03 giữa nguyên thủ Mỹ và đồng cấp Vladimir Putin cùng với lời mời tổng thống Nga công du Hoa Kỳ vào thời điểm thuận lợi. Châu Âu phải tự lo thân Với Liên Hiệp Châu Âu, Donald Trump nhiều lần khẳng định khối này được lập ra là để « rút ruột » Hoa Kỳ, vươn lên được nhờ « lợi dụng lòng tốt của nước Mỹ » . Phó tổng thống JD Vance đến dự Hội Nghị An Ninh Munich giữa tháng 2/2025 khó chịu vì Lục Địa Già ủy thác an ninh của chính mình cho Mỹ. Châu Âu bối rối không biết còn tin tưởng được vào Mỹ đến mức độ nào nhất là khi Washington vừa muốn bỏ rơi Ukraina, vừa đòi Châu Âu bảo đảm an ninh cho Ukraina, vừa dễ dàng bắt tay Matxcơva, thậm chí là tính tới giải pháp dỡ bỏ cấm vận kinh tế Nga. Nhìn từ Bruxelles, trụ sở Liên Hiệp Châu Âu, 100 ngày vừa qua, Donald Trump đẩy các đồng minh châu Âu vào chân tường, khối này bắt buộc phải tổ chức lại nếu không, có nguy cơ bị tan rã. Thông tín viên Pierre Benazet giải thích : « Donald Trump đã làm chao đảo mối quan hệ xuyên Đại Dây Dương, mà đầu tiên hết là liên quan đến chiến tranh Ukraina. Hoa Kỳ đã có lập trường khác hẳn với Liên Âu để rồi Bruxelles giờ đây bị đẩy vào thế phải đối mặt với nguy cơ chiến tranh. Lần đầu tiên từ khi Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc năm 1945, xung đột vũ trang ở quy mô lớn đang diễn ra tại châu lục này, cho dù trước đây châu Âu đã phải đối diện với chiến tranh ở Nam Tư cũ trong thập niên 1990, làm khoảng 140.000 người chết. Nhưng chiến tranh ở Kosovo vẫn bị coi là chỉ mang tính khu vực. Với Ukraina lần này thì khác. Đây là một cuộc chiến lan rộng và đặc biệt ảnh hưởng đến ba nước trong vùng Baltic cũng như Ba Lan. Trong khi đó, châu Âu chưa sẵn sàng để có một chính sách phòng thủ chung (…) Chưa bao giờ Liên Âu nghĩ sẽ phải một mình yểm trợ Ukraina và đó là hậu quả từ chính sách của ông Trump. Do vậy khối này khẩn trương hướng tới một chính sách phòng thủ chung châu Âu và nhất là đồng loạt tăng ngân sách quốc phòng. Trong nhiệm kỳ đầu của tổng thống Trump châu Âu đã miễn cưỡng cam kết dành đến 2 % GDP cho ngân sách quốc phòng. Giờ đây mục tiêu đó là điều tất yếu và thậm chí tất cả đều đang đẩy nhanh tiến độ để đạt đến mục tiêu này. Riêng Ba Lan đã vượt cả Hoa Kỳ về tỷ lệ chi tiêu quân sự so với GDP. Thế rồi châu Âu cũng bực mình vì chính sách ngoại giao của Mỹ không cho phép đem lại những kết quả cụ thể chấm dứt chiến tranh Ukraina, nên khối này đã đưa ra một đề xuất khác nhằm vãn hồi hòa bình cho Ukraina » Thương mại : Xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ tăng mạnh Về thương mại, một tác động bất ngờ từ khi tổng thống Mỹ Donald Trump dùng vũ khí « thuế đối ứng » để tuyên chiến với gần như toàn cầu : báo tài chính Nhật Bản Nikkei Asia hôm 01/05/2025 ghi nhật hiện tượng Malaysia và Việt Nam trong tháng 3/2025 « tăng tốc xuất khẩu sang Mỹ ». Tổng kim ngạch xuất khẩu của Malaysia vào Hoa Kỳ tăng 51 %, của Việt Nam tăng 32 % đạt gần 12 tỷ đô la trong riêng tháng 3/2025. Tờ báo này ghi nhận một số công ty như hãng dệt may Dony Garment « cấp bách giao hàng và ngừng nhận thêm đơn đặt hàng mới để tránh bị đánh thuế cao » . Mọi người còn nhớ trong cuộc họp báo ở Nhà Trắng hôm 02/04/2025, tổng thống Donald Trump loan báo mức thuế « đối ứng » nhắm vào từng đối tác thương mại trong thế xuất siêu với Hoa Kỳ. Việt Nam là một trong những quốc gia bị nặng nhất với mức thuế 46 %. Đành rằng một tuần lễ sau đó, cũng ông Trump loan báo tạm hoãn áp dụng đòn trừng phạt này trong 90 ngày để cho thế giới có thể đàm phán, nhưng Trung Quốc là một ngoại lệ. Từ đó đến nay, hai ông khổng lồ kinh tế trên thế giới đang lao vào một cuộc chiến sinh tử mà cả Bắc Kinh lẫn Washington cùng có vẻ lúng túng để tìm một « lối thoát trong danh dự » . Hôm 30/04/2025, bộ trưởng Tài Chính của tổng thống Trump, Scott Bessent đòi Trung Quốc « xuống thang » . Ở góc đài bên kia, Bắc Kinh không vội. Bộ Thương Mại nước này còn đang « thẩm định tình hình » và cho rằng thực vô lý khi phải « xuống thang » khi mà Hoa Kỳ đơn phương gây nên sóng gió. Việt Nam 50 năm kết thúc chiến tranh, 3 triệu người vẫn còn sống với hậu quả chất độc da cam Cũng 30/04/2025 đánh dấu tròn 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam. Nửa thế kỷ qua, hậu quả của chất độc da cam vẫn hành hạ hàng triệu người dân Việt Nam, kể cả những người sinh ra sau chiến tranh : « những nạn nhân vô tội » . Hãng tin Mỹ AP nhắc lại trong cuộc chiến này Hoa Kỳ đã « rải hơn 72 triệu lít chất khai quang : Đất đai và các nguồn nước bị ô nhiễm » vì chất dioxin được ghi nhận tại 58 trong tổng số 63 tỉnh thành của Việt Nam. AP đưa ra con số ba triệu người, trong đó có nhiều trẻ em, phải sống với những dị tật bẩm sinh, bị ung thư do bị phơi nhiễm với chất độc da cam. Việt Nam cũng đã mất hàng thập niên để gột tẩy tàn dư độc hại của chiến tranh. Từ 1991, Hoa Kỳ đã chi ra hơn 155 triệu đô la để hỗ trợ Việt nam trong nhiệm vụ này, đặc biệt là tại các khu vực bị phơi nhiễm nặng nhất như Đà Nẵng, Biên Hòa … Vẫn theo AP, hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh là một nền tảng trong quan hệ giữa hai nước cựu thù. Năm 2023 Mỹ và Việt Nam đã nâng quan hệ lên cấp cao nhất, ở mức « đối tác chiến lược toàn diện » . Hai năm sau, ngay trong ngày đầu tiên của nhiệm kỳ, tổng thống Donald Trump ban hành sắc lệnh đình chỉ hầu hết viện trợ nước ngoài, đóng cửa Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế Hoa Kỳ USAID, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác giúp đỡ Việt Nam tẩy độc chất khai quang. Trả lời AP, chủ tịch hiệp hội nạn nhân chất độc da cam tại Đà Nẵng, ông Nguyễn Văn An vẫn kỳ vọng vào sự hỗ trợ của chính phủ Mỹ và của tập đoàn hóa chất Monsanto hỗ trợ các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam : « Việt Nam không thể tự xử lý khối lượng hóa chất độc hại còn tồn đọng nếu không có sự hỗ trợ (…) Chúng tôi luôn tin rằng chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất hóa chất độc hại này phải có trách nhiệm hỗ trợ các nạn nhân ». Chủ tịch Hiệp hội nạn nhân chất độc da cam tại Đà Nẵng hy vọng nếu các dự án bị gián đoạn thì đây chỉ là hiện tượng tạm thời do các biến động chính trị tại Washington. Tesla đang đẩy chủ nhân ra khỏi cửa ? Từ trước khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng và nhất là trong 100 ngày đầu nhiệm kỳ vừa qua, tỷ phú Elon Musk, chủ nhân tập đoàn ô tô điện Tesla luôn sát cánh với tổng thống Mỹ thứ 47. Nhưng từ khi Musk được mời lãnh đạo bộ Hiệu Quả Chính Phủ, cổ phiếu của tập đoàn Tesla đã mất giá 35% và nhất là số xe bán ra cũng đã giảm mạnh tại Mỹ cũng như tại châu Âu. Trong tháng 2/2025, số xe Tesla bán ra tại Đức giảm 70 %. Khách hàng của Pháp cũng đã quay lưng lại với những chiếc ô tô điện có dấu ấn của Elon Musk : thị trường Pháp trong tháng 4/2025 giảm 59 % so với cùng thời kỳ năm ngoái. Càng lúc càng rộ lên tin đồn tỷ phú Elon Musk có thể sẽ phải từ bỏ chức vụ tổng giám đốc của công ty chính ông đã lập ra. Thông tín viên Guillaume Naudin từ Washington cho biết : « Cả Tesla lẫn Elon Musk cùng mạnh mẽ bác bỏ đến cùng, nhưng The Wall Street Journal vẫn giữ nguyên những thông tin đã loan tải. Theo tờ báo tài chính này, hội đồng quản trị đã bắt đầu âm thầm tìm kiếm người thay thế Elon Musk vì quan niệm Musk cần dành nhiều thời gian hơn cho công ty. Trong 6 tháng trở lại đây, ông chủ yếu hoạt động chính trị : Elon Musk ủng hộ Donald Trump trong cuộc vận động tranh cử, rồi can thiệp cổ vũ cho các phong trào cực hữu trên tế giới. Elon Musk cũng đã thi hành nhiệm vụ mạnh tay cắt giảm ngân sách của chính quyền liên bang, sa thải nhân viên làm việc cho chính phủ. Người tiêu dùng - những khách hàng của Tesla, không hài lòng về những việc làm đó. Mọi nơi trên thế giới, số lượng xe của hãng này bán ra bị sụt giảm. Lợi nhuận của các cổ đông giảm đến 71 %. Đấy là chưa kể đến những hậu quả tai hại đối với hình ảnh của tập đoàn : nhiều cuộc biểu tình diễn ra tại các đại lý của Tesla, một số bị phá hoại. Những ai có xe Tesla phải dán giấy ghi rõ là họ đã mua xe trước khi Elon Musk thay đổi lập trường chính trị. Donald Trump cố gắng cứu vãn tình hình. Ông đã sắm một chiếc Tesla và đậu ngay trong vườn của Nhà Trắng. Tổng thống Hoa Kỳ cũng khẳng định là Elon Musk hoàn toàn có chỗ đứng trong nội các và cộng tác với ông cho đến bất cứ lúc nào. Tuy nhiên tổng thống Trump cũng nhìn nhận có lẽ Musk cần tập trung trở lại để chăm lo cho hãng xe của mình ».…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Áp lực của Kissinger với Việt Nam Cộng Hòa: Hồi tưởng của ông Hoàng Đức Nhã 50 năm sau ngày 30/04 20:41
20:41
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked20:41
Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc nửa thế kỷ. Thời gian đã xa nhưng với nhiều người, 30/04/1975 như chỉ mới hôm qua: Lịch sử như ngưng đọng. 50 năm trôi qua, nhưng giai đoạn lịch sử này dường như vẫn còn nhiều mảng trống. Những gì đã dẫn đến kết cục 30/04/1975? Quan hệ giữa chính quyền Mỹ với chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã đóng vai trò gì trong kết cục này?... Nhân dịp tròn 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, ban tiếng Việt đài RFI phỏng vấn ông Hoàng Đức Nhã, nguyên cố vấn của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, và cũng là người trực tiếp cố vấn tổng thống trong các đàm phán dẫn đến Hiệp định Paris về Việt Nam 1973. Ông Hoàng Đức Nhã, tốt nghiệp cử nhân kỹ thuật điện tại Hoa Kỳ năm 1965. Năm 1967, ông được bổ nhiệm làm bí thư (tức cố vấn) và phát ngôn viên của tổng thống, rồi tổng trưởng (tức bộ trưởng) Dân Vận và Chiêu Hồi từ năm 1973 đến cuối năm 1974. Trên cương vị bộ trưởng, ông đã chủ trì hai chương trình trại hè Nối Vòng Tay Lớn năm 1973 và Đường Việt Nam năm 1974 để sinh viên trong và ngoài nước hợp sức, học hỏi nhau đóng góp xây dựng đất nước. Từ năm 1975 đến năm 2003, ông làm việc tại ba công ty lớn là General Electric, FMC Corporation và Monsanto Company tại Mỹ. Từ năm 2004, ông đồng sáng lập một công ty chuyên về phân tích dữ liệu lớn và là giám đốc điều hành cho đến khi nghỉ hưu năm 2012. Ông Hoàng Đức Nhã hiện sống ở Chicago. Sau đây mời quý vị theo dõi những hồi tưởng và suy tư của ông Hoàng Đức Nhã nhân dịp tròn 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam. *** 30/04 là kết cục của cả một tiến trình « rất dài » RFI : Xin kính chào ông Hoàng Đức Nhã. Tôi rất vui có được cơ hội này để chia sẻ với khán thính giả của đài ở Việt Nam cũng như trên thế giới về cái diễn biến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thật sự 30 tháng 4 chỉ là một cái thời điểm nhưng mà cái tiến trình dẫn đến 30 tháng 4 rất dài. RFI : Trước hết xin ông có thể chia sẻ một đôi chút về thời điểm 30 tháng 4 : Lúc đấy ông ở đâu và làm gì ạ? Ngày 30/04/1975, tôi vừa được máy bay của không quân Hoa Kỳ đưa đến đảo Guam. Lúc ấy coi như là một cái cửa khẩu vào Hoa Kỳ và những người tị nạn từ miền Nam Việt Nam phải vào đó để làm giấy tờ được nhập cảnh. Trước ngày 30 tháng 4 tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford đã ký một sắc lệnh đặc biệt cho phép những người miền Nam Việt Nam được nhập cảnh Hoa Kỳ với tư cách là tị nạn chính trị. Thành thử ở đó không phải đợi lâu. Chúng tôi đến Guam trong vòng mấy tiếng đồng hồ là có được cái mẫu giấy chứng nhận. Khi chúng tôi ra khỏi máy bay vào phòng của sở nhập trú thì nghe tin ông Dương Văn Minh đã đầu hàng và coi như miền Nam Việt Nam không còn nữa. Đó là một cái nỗi buồn tới giờ này không nguôi. « Đấu khẩu » Trump – Zelensky : Chính quyền Nixon thời đó « dữ tợn hơn nhiều » RFI : Thưa ông, cái thời điểm lịch sử cách đây 50 năm rồi, nhưng với không ít người hiện nay, dường như có một sự kiện, một không khí ít nhiều gợi nhớ đến ngày 30 tháng 4 1975 của Việt Nam. Chắc ông cũng theo dõi là sự kiện ngày 28/2 vừa qua tại Nhà Trắng, với cuộc gặp giữa tổng thống Mỹ Donald Trump và người lãnh đạo Ukraina Volodymyr Zelensky. Tôi thấy dù báo chí bên phía tả ở Hoa Kỳ họ cho ông Trump với ông Vance rất là cộc cằn, hay là dùng lời lẽ không ngoại giao đối với ông Zelensky. Nhưng tôi thấy nếu nói ông Trump hay ông Vance những lời lẽ không nhã nhặn, thì nhớ lại cái thời kỳ miền Nam Việt Nam chúng tôi thương thuyết với ông Kissinger (ngoại trưởng Mỹ) với ông Nixon (tổng thống Mỹ), thì họ cộc cằn, dữ tợn hơn nhiều. Khi gặp ông Zelensky, ông Trump nói lớn tiếng chứ ông không có cái gọi là mỉa mai hay là giận dữ như là hồi chúng tôi đã đối phó với các ông Kissinger và Nixon. Đấy là điểm thứ nhất. Điểm thứ nhì ít ai biết, theo tôi với tư cách là một quan sát viên, cũng là người đã từng thương thuyết ở cấp rất cao, cấp tổng thống, cấp lãnh tụ đất nước. Tôi thấy cử chỉ ông Zelensky không đúng lễ độ của một nhà ngoại giao. Việt Nam mình có cái văn hóa, nghĩa là dù ở bên Pháp với bên Mỹ, khi mình ăn nói, mình cũng tỏ vẻ lễ độ. Nhưng tôi muốn nói rằng lúc đó Việt Nam Cộng Hòa ở trong thế yếu. Câu hỏi của Thành đã làm tôi nhớ lại cái thời kỳ đó. Ròng rã mấy tháng trời, ngày nào cũng họp. Ngày nào cũng họp, nghĩa là rất nhức đầu nhức óc, nhưng mà vì quyền lợi của nhân dân miền Nam chúng tôi, tổng thống Thiệu với tôi rất là điềm đạm trình bày. Rốt cuộc sau đó Hoa Kỳ cũng phải công nhận là chúng tôi rất là lễ độ và đưa ra những cái lập luận rất là vững chắc, chứ không phải là xúc động mà nói tầm bậy. Vì quyền lợi của nhân dân miền Nam, chúng tôi đã rất nhã nhặn, lễ độ RFI : Ông có thể cho thính giả biết một đôi chút bối cảnh như thế nào và một số những chi tiết để mọi người có thể hình dung rõ hơn được không ạ? Lúc thương thuyết gọi là mặt gặp mặt giữa ông tổng thống Thiệu với tôi một bên, còn bên Mỹ là ông Henry Kissinger từ Hoa Thịnh Đốn bay qua Sài Gòn, và đi với đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, chúng tôi thường gọi là « cuộc họp bốn bên ». Ông Kissinger tính cũng cục cằn, ổng đưa ra mấy cái văn thư rồi nói tổng thống Nixon rất bất bình với mấy ông. Phía Việt Nam mình, tổng thống rất là điềm đạm : Không, chúng tôi thấy cái điều khoản này nè, đoạn văn này không đúng, không phản ảnh được nguyện vọng của miền Nam chúng tôi, mà chúng tôi đã nói với quý ông Hoa Kỳ mấy tháng trước rồi, nhưng mà tôi thấy trong cái bản này mấy ông cứ lặp lại cái đòi hỏi của mấy ông cũng như của Hà Nội, chúng tôi nhất định không ký một hiệp định hại cho dân. Nên có lúc ông Kissinger nói thẳng với tổng thống Thiệu : « Chúng tôi sẽ có những cái phản ứng rất táo bạo, nếu mấy anh không ký ». Tổng thống của tôi cứ tỉnh bơ : Chúng tôi không bao giờ ký một cái hiệp định mà hại cho dân của tôi. Xong nói thêm một câu nữa, ông Kissinger quay qua tôi nói : Hai anh em ông (vì tôi là em họ của tổng thống Thiệu), hai anh em ông đừng bao giờ cố thành « martyr », họ dùng chữ « thánh tử đạo ». Mà lúc đó, chúng tôi rất là bình tĩnh : Thưa ông cố vấn, chúng tôi vẫn không ký. Họp với Kissinger: Tổng thống Thiệu nói tiếng Việt, Hoàng Đức Nhã phiên dịch Đó là thời điểm ngày 22/10/1972. Ròng rã bốn ngày. Cái ngày chót vừa kể là ngày 22. Mỗi ngày hai tiếng họp, bốn năm tiếng đồng hồ, rất là căng thẳng. Phía Hoa Kỳ, thì chỉ có mình ông Kissinger nói, ông đại sứ ngồi yên. Bên phía chúng tôi, lúc đó ông tổng thống Thiệu, tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa nói bằng tiếng Việt. Tôi lúc đó với tư cách là bí thư của tổng thống, tôi dịch ra. Thành ra bên phía họ thì họ cũng ức nên nói tổng thống của anh biết nói tiếng Anh, nhưng mà tại sao là phải qua anh dịch. Tôi mới trả lời là những cái ghi nhận lại, chúng tôi sẽ trình lên Quốc hội, chúng tôi hành xử như một người lãnh đạo của một cái quốc gia có chủ quyền. Chúng tôi nói tiếng Việt. Một điểm nữa là ngày cuối cùng đó, ngày 22, khi ông ta ra về, từ đó mà đi ra tới cầu thang đi xuống khu mà chỗ xe hơi đậu, tôi đưa ra với ông đại sứ Bunker thì ông Kissinger ổng bực tức, ổng lầu bầu nói, đây là cái thất bại ngoại giao lớn nhất của tôi, tôi sẽ không bao giờ trở lại Sài Gòn. Tôi trả lời ngay chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng đón ông cố vấn của tổng thống Hoa Kỳ, ông cố vấn lúc nào đến Sài Gòn là chúng tôi cũng sẽ trọng đãi. Bất đồng với Mỹ về đàm phán với miền Bắc: Cuộc đối đầu 4 năm và lời đe dọa « hành động táo bạo » RFI : Diễn đạt « hành động táo bạo » của ông Kissinger có nghĩa là gì ạ ? Trong ngoại giao họ không nói giết ông. Tiếng Anh họ nói « we will take brutal action », có thể nói là « trả đũa bằng hành động táo bạo ». Táo bạo là cái gì? Sát hại chứ còn gì? Ông Kissinger không bao giờ bốc đồng cả. Một chữ của ông ta là ông cân nhắc lúc này lúc kia nhưng mà nghĩ lại tôi thấy ông ta càng bực tức khi thấy ông tổng thống Thiệu với tôi rất bình tĩnh, rất tươi cười và rất lễ độ. RFI : Thưa ông, vào thời điểm năm 1968, những người quan sát thời đó ghi nhận việc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa dường như là ngay từ đầu đã bất đồng với chính quyền Mỹ trong việc thương thuyết với miền Bắc có đúng không ạ ? Cái điều đó đúng ! Nhưng tôi phải nói thêm là bất đồng không phải là không muốn thương thuyết mà là bất đồng về cái thể thức thương thuyết. Thể thức thương thuyết là một hành động rất quan trọng. Thưa ông Hoa Kỳ, bây giờ mình đi qua nói chuyện bên phía Bắc Việt. Bây giờ mình đưa những cái đề tài gì : rút quân, tái lập hòa bình … , Những điểm nào là nguyên tắc, đâu là các chi tiết. Phải đồng ý trên cái nguyên tắc rồi mới nói về chi tiết. Rồi phần nào mà Hoa Kỳ nói, phần nào Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi nói ? Ví dụ như là tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam. Tại sao ông lại nói về cái đó ? Phải là chúng tôi chứ ! Không thể là ông được ! Đó là những cái ví dụ mà tôi nói là thể thức để tiến hành cái cuộc thương thuyết ! Nhiều người Mỹ nói cái chuyện đó mấy ông đừng lo ! Để chúng tôi lo ! Tôi nói không được ! Tại sao như vậy ? Nghĩa là tôi phải giải thích với Quốc Hội của tôi, với nhân dân của tôi là Hoa Kỳ sẽ lo về tương lai chính trị của miền Nam thì cái đó người ta chửi cho. Tại sao ông để cho quốc gia khác thương thuyết về tương lai của miền Nam mình... Khi ông Nixon lên (đầu năm 1969), Hoa Kỳ mới sửa đổi, chúng tôi mới đồng ý. Giữa tháng Giêng 1969 phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa mới sang Paris. Đó là cái ví dụ để cho thấy cái lập trường vững của phía Việt Nam Cộng Hòa. Không phải chúng tôi chống, nghĩa là chúng tôi chống hòa bình, chúng tôi sợ mất ghế tổng thống. Không phải ! Từ 1967 trước khi đắc cử tổng thống, khi ông Nguyễn Văn Thiệu còn là trung tướng, chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia, ông nói chúng tôi miền Nam Việt Nam hiểu rằng một ngày nào Hoa Kỳ muốn đem con em quân lính về, quân lực Việt Nam Cộng Hòa lúc nào cũng sẵn sàng đảm nhận cái trách nhiệm để bảo vệ bờ cõi và bảo vệ nhân dân. Chúng tôi chỉ xin Hoa Kỳ viện trợ súng đạn, công cụ chiến tranh để chúng tôi tiếp tục chiến đấu. Chống lại những bóp méo của người Mỹ về Việt Nam Cộng Hòa: Cuộc chiến truyền thông xuyên thế kỷ Mình đã nói từ 1967. Những lúc đó, báo chí hay là mấy cái ông trong Quốc Hội (Mỹ), mà nói rằng mấy ông sợ hòa bình. Nhiều khi tôi đi qua bên Hoa Kỳ trong những chuyến công tác, tôi nói chuyện với báo chí với lại những người phụ tá của mấy ông dân biểu, nghị sĩ, tôi nói : Chúng tôi nói cái gì mấy ông ghi nhớ chứ đừng cứ nói là chúng tôi ngoan cố (chống đàm phán hòa bình). Giữa đồng minh với nhau nhiều khi họ cố ý họ dùng báo chí họ vu cáo mình. Lúc đó tôi vừa là bí thư, vừa là phát ngôn viên. Không có ngày nào mà tôi không phải chỉnh mấy người làm báo chí Hoa Kỳ ở Sài Gòn, viết lệch lạc, theo cái mà họ muốn mà không bao giờ chịu phản ảnh những cái gì mà chính phủ Việt Nam lúc đó chính thức công bố. RFI : Phải chăng thiếu s ự ủng hộ của Quốc Hội Mỹ là nguyên nhân chính dẫn đến cái sự sụp đổ khó tránh khỏi của Việt Nam Cộng Hòa, thưa ông ? Cái đó rất đúng ! Hãy nhớ rằng tháng 11/1972 lúc đó là ông tổng thống Nixon tái đắc cử nhiệm kỳ nhì, nhưng Quốc Hội mới đa số là đảng Dân Chủ. Khi mà một Quốc Hội có đa số là đảng đối lập, trong trường hợp này là đảng Dân Chủ, thì phía hành pháp của đảng Cộng Hòa ở trong thế yếu thôi. Yếu hơn nữa đó là vì ông Nixon bị lâm vào cái vụ Watergate, rồi rốt cuộc phải từ chức vào tháng 8/1974. Thì từ đó cho đến 30 tháng 4/1975 đi xuống dốc rất là nhanh. RFI : Về phía xã hội miền Nam Việt Nam, theo ông , có những hy vọng mở ra cho một cái kết cục mình tạm gọi là ít bạo lực hơn không ạ? Thật ra, ít có người muốn theo dõi kỹ lập trường của Việt Nam Cộng Hòa trong vấn đề thương thuyết. Nghĩa là phía Việt Nam Cộng Hòa đã nói rõ là Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi sẵn sàng nói chuyện với phía Cộng Sản bên kia để đi đến có thể nói là một giải pháp chính trị trong đó quyền lợi của người dân tại miền Nam Việt Nam được bảo đảm và hai miền Nam Bắc sẽ hợp với nhau, tại vì cũng con cháu của một mẹ Việt Nam cả. Thì đã nói rõ ràng, nhưng mà vì hai bên đã chiến đấu với nhau ròng rã mấy chục năm, thì bây giờ phải có một phương thức rõ ràng, nói thế nào phải thi hành thế ấy. Chứ không phải vì phải chấm dứt chiến tranh mà phía Việt Nam Cộng Hòa không cần đàm phán về hòa bình nữa. Nhưng mà cái điểm đó người Mỹ thì không bao giờ chịu nhắc đến, cứ tìm đủ mọi cách gọi là đổ lỗi. Cái chính trị của người Mỹ hay tìm cách, nghĩa là mình nói cái chữ « chạy tội » thì quá đáng đi, nhưng mà là họ bóp méo sự thật, hay là họ dùng những cái từ ngữ hay là cái danh từ hay là cách hành văn của họ để cho thấy lúc nào họ cũng có lý cả. Miền Nam Việt Nam từng có một nền Cộng hòa lập hiến Thành thử ra suốt bao nhiêu năm nay, nhất là 15 năm vừa rồi, từ khi tôi về hưu, hoài bão của tôi là đi nói chuyện với cái giới khoa bảng, cấp đại học, giáo sư. Tôi thách đố họ, tôi nói mấy ông gọi là các tiến sĩ, các nhà nghiên cứu, hiểu cách phân tích vấn đề, vấn đề nào cũng có nhiều khía cạnh, chứ không phải chỉ một chiều, vậy mà mấy ông cho người ta cái cảm tưởng là những cái gì mấy ông viết ra là « dishonest », không có lương tâm, không có đạo đức, dù mấy ông là tiến sĩ ở Harvard, ở Princeton, Columbia, Berkeley. Ông nói những cái chuyện đó, mà ông không cho biết lập trường của chúng tôi từ trước tới giờ. Chúng tôi không bao giờ từ chối hòa bình cả. Đó là cái điểm thứ nhất. Mà hơn nữa trong lúc miền Nam chúng tôi chống giặc xâm lăng, chúng tôi vẫn tiếp tục xây dựng một nền dân chủ tại miền Nam Việt Nam. Chúng tôi có một hiến pháp. Chúng tôi là một thể chế cộng hòa lập hiến. Làm gì cũng theo luật pháp. Nhưng không, bây giờ họ không bao giờ đề cập đến điều đó. Thành thử ra người dân thường hay các em sinh viên, học sinh, đọc thấy tưởng là mấy cái ông này là hiếu chiến, tối ngày không có chịu thực thi dân chủ. Đâu có ai biết là miền Nam lúc đó có một cái hiến pháp rất là tốt. Quyền căn bản của mọi công dân được bảo vệ trong cái hiến pháp đó. Miền Nam Việt Nam lúc đó có bầu cử đa đảng, từ trung ương xuống địa phương. Có một nền tư pháp độc lập, có một lập pháp độc lập... Cái thế hệ sau này ở Hoa Kỳ có nhiều người trẻ gốc Việt, tôi rất mừng là các em đó chịu khó nghiên cứu. Ngoài cái khía cạnh quân sự, còn có khía cạnh dân sự, khía cạnh xã hội. Nghĩa là trong lúc lính của Việt Nam Cộng Hòa giữ vững bờ cõi, thì người dân trong các làng, ấp, các đô thị, vẫn được sống trong một chế độ dân chủ, có quyền bầu cử… Thì cái điểm đó ở Hoa Kỳ họ không chịu công nhận. « Khát vọng chưa thành » : Mong ước hòa giải hòa hợp dân tộc trên cơ sở các quyền tự do căn bản được tôn trọng RFI : Thưa ông, vừa rồi được biết là ông có một cuốn sách mới ra mắt, cuốn « Hoàng Đức Nhã - Khát vọng chưa thành ». Rất mong được ông cho biết là ông muốn chuyển tài thông điệp chính gì qua cuốn sách này ? Cái chữ « Khát vọng chưa thành » nói lên hoài bão của tôi là một nhân viên trong chính phủ, một người trai tương đối trẻ tuổi, được may mắn đi du học, hiểu biết nhiều hơn không những về chuyên môn, mà quan trọng nhất là hiểu biết về điều có thể nói là một chế độ dân chủ. Người dân dù ở giai tầng nào cũng thấy rõ được quyền gì và không được quyền gì. Và từ đó người dân có được cái quyền đó để tự họ làm ăn buôn bán, làm luật sư, bác sĩ, nhà báo… trong khuôn khổ của luật lệ quốc gia. Thì có như vậy thì quốc gia mới tiến được. Khi tôi nói cái khát vọng tôi chưa thành đó là vì, rất tiếc là vì cái cuộc chiến sau Hiệp định Paris dập tan, không có cơ hội để tiếp tục. Tại vì theo tôi nghĩ, người dân có tự do mới có sáng kiến, mà có sáng kiến thì mới có sản xuất và từ đó mới giúp phát triển quốc gia được. RFI : 50 năm sau sự kiện lịch sử 30 tháng 4, thưa ông, ông có cái cảm nghĩ gì về những nỗ lực của người Việt hiện nay trong việc hướng đến hòa giải, hướng đến xây dựng một cái xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn ? Thật sự người Việt Nam, theo tôi nghĩ, ở hai miền ở miền Bắc cũng như ở miền Nam cũng mong muốn rằng sự chấm dứt chiến tranh đưa đến một cái tình trạng mà hai bên có thể ngồi nói chuyện với nhau đi đến một cái giải pháp chính trị mà hai bên có thể chấp nhận. Người Việt Nam chúng ta dù ở phía Cộng Sản Bắc Việt hay trong miền Nam tự do đều yêu nước và đều muốn sống ở trong hòa bình. Trước hiệp định Paris, miền Nam cũng đã nói : chúng tôi sẵn sàng ký hiệp định rồi hai bên ngồi nói chuyện với nhau đi đến một cái giải pháp chính trị qua một cuộc bầu cử tự do. Nhân dân miền Nam trước 1975 sống trong một cái thể chế Cộng hòa lập hiến. Trong đó có một cái hiến pháp bảo vệ các quyền lợi căn bản của người dân. Thế hệ tương lai mà chúng tôi gọi là thế hệ hậu duệ đó, hiểu rằng tại sao các bậc cha bậc anh đã chiến đấu. Thành thử ra ngày nào đó những người thuộc thế hệ hậu duệ ở Việt Nam bây giờ có những cái điều kiện tiên quyết đó thì theo tôi nghĩ chắc chắn lúc đó họ sẽ tham gia một cách tích cực hơn. RFI : Xin cảm ơn ông Hoàng Đức Nhã .…
T
Tạp chí đặc biệt


1 100 ngày đầu của Trump nhiệm kỳ hai: Dư luận Việt Nam trước cú sốc thuế quan 8:46
8:46
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked8:46
Hôm nay, 30/04/2025, đúng 100 ngày tổng thống Mỹ Donald Trump cầm quyền trong nhiệm kỳ thứ hai của ông, 100 ngày mà toàn bộ đất nước Hoa Kỳ bị đảo lộn do chính sách những chính sách của tân chủ nhân Nhà Trắng, như chính sách tinh giản tối đa bộ máy nhà nước, chính sách cực kỳ gắt gao chống nhập cư bất hợp pháp… Kể từ khi ông Trump trở lại Nhà Trắng, chưa bao giờ nhà nước pháp quyền của Mỹ bị thử thách như thế, thậm chí các quan chức cao cấp nhất trong chính quyền không ngần ngại kêu gọi phớt lờ những quyết định của ngành tư pháp. Nhà tỷ phú Cộng Hòa còn tấn công vào cả các trường đại học theo xu hướng cấp tiến như Harvard, bị xem là để “lan truyền tư tưởng bài Do Thái”. Cũng trong 100 ngày qua, ông đã khiến cả thế giới chao đảo với những đòn thuế quan dồn dập, trong đó Việt Nam là một trong những nước bị nặng nhất với mức thuế “đối ứng” lên tới 46%, một cú sốc lớn đối với người dân Việt Nam nói chung và đối với giới doanh nghiệp nói riêng. Trả lời RFI Việt ngữ, ông Lê Quang Huy, nhân viên một công ty ở Sài Gòn, nhận xét về 100 ngày đầu tiên của tổng thống Trump trong nhiệm kỳ 2: “Về 100 ngày đầu của ông Trump trong nhiệm kỳ thứ hai, thì ông ta đã ra nhiều quyết sách, đường lối về đối nội cũng như đối ngoại quan trọng và gây nhiều tranh cãi khiến cho tôi, trước đây là một người ủng hộ ông trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông, cũng cảm thấy sửng sốt và bất ngờ. Những chính sách đối nội và đối ngoại đó đã gây nhiều xáo trộn trong nội tình nước Mỹ cũng như trên quốc tế. Cụ thể là chính sách đối với người nhập cư, rồi chính sách đối với trường đại học Harvard.. Còn về quốc tế thì chẳng hạn như mức thuế đối ứng quá cao đối với các quốc gia, hay những thay đổi bất ngờ đối với các đồng minh truyền thống của Mỹ. Vì thế, theo như tôi được biết thì trong thời gian vừa qua, tỷ lệ ủng hộ ông trong nước Mỹ cũng bị giảm. Và trên thế giới thì ông cũng gây nhiều sự bất bình từ các đồng minh của truyền thống của Mỹ. Tôi nghĩ có lẽ mong muốn của ông là để thực hiện lời hứa làm cho nước Mỹ hùng mạnh trở lại, đưa sản xuất trở về nước Mỹ và tạo nên một cái trật tự thương mại mới trên thế giới để làm giảm bớt cái thâm hụt mậu dịch của Mỹ đối với các nước. Nhưng những động thái của ông có vẻ hơi mạnh tay và quá trớn khiến cho dư luận thế giới không đồng tình với ông. Và tôi nghĩ rằng các đồng minh của ông cũng cảm thấy không an tâm.” Về phần mình luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng Luật sư Hoàng Việt Luật ở Sài Gòn, cũng bày tỏ sự thất vọng về nhiệm kỳ thứ hai của tổng thống Trump: “Khi ông Donald Trump đắc cử thì dân Việt Nam đa phần trông chờ vào sự lãnh đạo của ông Trump trong nhiệm kỳ mới, vì người dân Việt Nam thấy ông Trump rất là mạnh tay đối với Trung Quốc, kể cả về chiến lược quân sự, cũng như là về kinh tế thương mại. Cho nên người Việt Nam cũng rất là trông chờ Donald Trump mạnh tay với Trung Quốc, cũng như là có những mối quan hệ, hoạt động gắn kết với Việt Nam, đặc biệt khi một số người thấy tổng bí thư Tô Lâm có một kết nối trước khi ông Donald Trump đắc cử tổng thống, đó là một dự án sân golf ở Việt Nam hơn 1 tỷ rưỡi đô la. Khi ông Trump lên thì ai cũng mong chờ một cái sự thay đổi cũng như sự kết nối với Mỹ và Việt Nam. Tuy nhiên, sau một thời gian thì người Việt Nam cũng có những thay đổi nhìn nhận 100 ngày lãnh đạo của ông Donald Trump. Không phải là nhiệm kỳ này, mà ngay nhiệm kỳ trước, ông đã thể hiện một bản lĩnh không rõ ràng của một tổng thống Mỹ. Các đời tổng thống Mỹ khi lãnh đạo họ đều có một nguyên tắc chung: Khi họ nói vấn đề gì là vấn đề đó được đảm bảo, trên nguyên tắc là được thực hiện, cũng như có một cái giá trị, khi một tổng thống Mỹ, một người lãnh đạo thế giới, nói ra. Tuy nhiên đối với ông Donald Trump thì lại hoàn toàn khác. Hôm nay ông nói thế này, ngày mai ông nói thế khác, lệch pha với các nguyên tắc của các tổng thống trước đây. Ngoài những cái nguyên tắc đó, tôi nhận thấy ông Donald Trump không có một cái tính gọi là trung thực, đàng hoàng. Khi tôi quan sát phiên tòa New York xử ông về tội liên quan tới cô người mẫu khiêu dâm, thì ông hoàn toàn bác bỏ những điều mà cô người mẫu này nêu lên là trước đây có quen biết, có chụp hình, có đi đánh golf, có đi vào khách sạn: " Tôi không biết, tôi không biết cô này, cô này nói lung tung.” Một cái nữa: Luật sư Cohen, coi như là luật sư gia đình của ông Trump, khi đứng ra can thiệp trong vụ này và bị cảnh sát bắt, thì Donald Trump cũng không hề xem luật sư này là người thân của mình hoặc là người mình giao công việc mà bị gặp nạn. Ông chối bỏ toàn bộ. Như vậy, tôi thấy với tư cách của một nhà lãnh đạo mà lại - tôi dùng từ hơi nặng - có sự tráo trở như vậy, thì tôi nghĩ hành vi, tư duy của ông cũng sẽ ảnh hưởng đến những hành động, cũng như sự lãnh đạo của ông đối với nước Mỹ và toàn thế giới.” Không chỉ thất vọng về tư cách và cung cách lãnh đạo của ông Trump trong nhiệm kỳ thứ hai, nhiều người Việt Nam còn rất bất ngờ, nếu không muốn nói là bị sốc, vì mức thuế “đối ứng” lên đến 46% mà tổng thống Trump loan báo ngày 02/04 như là một biện pháp nhằm làm giảm thặng dư mậu dịch của Việt Nam với Hoa Kỳ. Ông Lê Quang Huy cho biết về phản ứng của người dân Việt Nam trước mức thuế này: “Về mức thuế suất đối ứng 46% mà ông Trump áp dụng cho Việt Nam, phản ứng của người Việt Nam ở trong nước phần lớn đều cảm thấy mức thuế suất đó cao quá và sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng một số người bình tĩnh hơn thì họ nghĩ đây là một cơ hội để cho Việt Nam định hình lại cấu trúc kinh tế trong nước, bớt đi xuất khẩu tài nguyên thô và chi phí nhân công giá rẻ, bởi vì thực sự trong một đơn vị sản phẩm xuất khẩu đi Mỹ, giá trị của phía Việt Nam không có nhiều, đó chỉ là chi phí nhân công thôi, còn giá trị sản phẩm là nằm trong sản phẩm của nước ngoài. Chẳng hạn như mình xuất đi một đôi giày Adidas hoặc một điện thoại thông minh Samsung, thì giá trị của Việt Nam trong đó nó đâu có bao nhiêu, toàn là giá trị của nước ngoài thôi. Thêm một vấn đề nữa, theo những nhà chuyên môn, đây cũng là một cơ hội cho Việt Nam bỏ đi cái gian lận trong xuất xứ, nói nôm na là mình xuất khẩu dùm cho Trung Quốc để bớt thuế. Một số ý kiến khác thì nghĩ rằng đây là cơ hội để mà cho Việt Nam mình thoát Trung. Lâu nay Việt Nam mình bị ảnh hưởng Trung Quốc nhiều quá. Nhưng nói chung, ở Việt Nam người ta cảm thấy lo lắng vì mức thuế đối ứng 46% này quá cao.” Giới kinh doanh "hoang mang" Về phần mình, luật sư Hoàng Cao Sang cũng nêu bật thái độ lo lắng của giới doanh nghiệp: “Cũng rất nhiều người bất ngờ với mức thuế của ông Donald Trump đối với Việt Nam. Người ta nghĩ rằng quan hệ giữa ông Trump và những các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng như là quan hệ giữa chính phủ Hoa Kỳ với chính phủ Việt Nam không đến nỗi căng thẳng như thế. Tuy nhiên, khi ông đánh thuế với mức thuế 46% như vậy, giới kinh doanh, doanh nghiệp hết sức là lo lắng, rất là lúng túng. Những dự án, những chương trình đã mua hàng xuất qua Mỹ mà bị áp thuế cao như vậy những doanh nghiệp Việt Nam rất lo lắng.” Tuy nhiên, theo ông Lê Quang Huy, sau cú sốc ban đầu, các doanh nghiệp Việt Nam nay cũng cảm thấy bớt lo lắng hơn về tác động từ thuế đối ứng của Mỹ: “Ngay khi nghe ông Trump đưa ra mức thuế suất đối ứng 46% thì đa phần ở Việt Nam người ta rất là lo lắng, vì sợ sẽ sụt giảm sản xuất và xuất khẩu, ảnh hưởng tới việc phát triển kế hoạch phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Nhưng sau một thời gian, sau những cam kết của chính phủ là sẽ tiến hành nhiều đợt đàm phán với phía chính phủ Mỹ và với các doanh nghiệp đối tác của Mỹ, để xin giảm bớt thuế suất đó. Đồng thời chính phủ kêu gọi các bộ ngành tăng cường ký kết thêm các FTA, các hiệp định thương mại tự do, với những thị trường tiềm năng, để giảm bớt gánh nặng về phía Mỹ. Rồi chính phủ cam kết hỗ trợ doanh nghiệp để xúc tiến thương mại, v.v.., nói chung là để không tạo nên một cú sốc quá lớn cho các doanh nghiệp đối với cái thuế suất 46%. Thành ra tôi cảm nhận rằng, khác với những ngày đầu, thời gian gần đây, các doanh nghiệp dần dần cũng bình tĩnh trở lại và trong thời gian tạm thời chưa áp dụng mức thuế suất cao đó, các doanh nghiệp cũng đang nghĩ ra những đối sách, những kế hoạch để tránh những thất lợi do việc áp thuế suất cao đó.” "Tính khí bất thường" của ông Trump Vấn đề đang được đặt ra đó là những chính sách cũng như cung cách lãnh đạo và tính khí bất thường của tổng thống Donald Trump đang khiến nhiều nước hoặc là e ngại, hoặc là xa lánh Hoa Kỳ, trong khi Trung Quốc đang lợi dụng tình hình này để tự khẳng định là một quốc gia “có trách nhiệm”, không chấp nhận những hành động hù dọa đơn phương trong thương mại. Do trùng hợp vào thời điểm, chuyến thăm Việt Nam của chủ tịch Tập Cận Bình vào giữa tháng 4, được dự trù từ lâu, đã diễn ra đúng vào lúc chiến tranh thuế quan do Trump phát động đang làm chao đảo cả thế giới. Trong bối cảnh này, liệu có nguy cơ Việt Nam bị lôi kéo về phía Trung Quốc hay không, ông Lê Quang Huy nhận định: “Tôi nghĩ là chuyện đó cũng khó xảy ra, bởi vì kinh nghiệm về những cái bẫy nợ do “Nhất đái, Nhất lộ” ( Một vành đai, Một con đường ) của Trung Quốc vừa qua đối với một số nước, ví dụ như ở Châu Phi hoặc là ở Nam Á vừa qua là một bài học kinh nghiệm. Thành ra nếu ông Trump mà làm quá mạnh tay với thuế suất đối ứng này, thì tôi cũng không nghĩ là Việt Nam sẽ ngã vào vòng tay của Trung Quốc đâu. Đương nhiên với đường lối ngoại giao cây tre thì chúng ta cũng phải làm như thế nào để không ngã về bên này và cũng không ngã quá bên kia.” Luật sự Hoàng Cao Sang cũng có ý kiến tương tự: “ Tôi theo dõi các nhà lãnh đạo Việt Nam thời gian vừa rồi thi thấy họ không có khái niệm sẽ gần Trung Quốc, mà họ đang có xu hướng thân những quốc gia phát triển, để mà từ đó đưa đất nước Việt Nam phát triển. Tuy nhiên, ở đây cũng có một rào cản. Khi ông Trump đánh thuế cao như vậy thì đương nhiên Việt Nam phải mở ra một thị trường mới. Không đi đường này được thì mình phải đi đường khác. Và có một nguyên tắc nữa mà người ta hay nói, đó là kẻ thù của kẻ thù là bạn ta. Tôi nghĩ rằng khi ông Donald Trump đánh thuế cao với EU, với Mêhicô, với Trung Quốc rồi với Canada, thì vô tình ông Trump đã tạo ra một mối quan hệ của những quốc gia đó lại với nhau. Vì sự sống còn của họ, họ cũng phải có một sự liên kết để xuất hàng hóa cũng như nhập hàng hóa để tránh tác động của ông Trump đến thị trường của Việt Nam, cũng như là thị trường của những quốc gia mà bị ông đánh thuế cao. Giữa Việt Nam với Trung Quốc thì mối quan hệ này đã có từ lâu rồi. Xét về mặt chính trị thì Trung Quốc với Việt Nam cùng một hệ thống chính trị. Còn xét về quan hệ thương mại hàng hóa, thì Việt Nam ngay cạnh Trung Quốc, cho nên hàng hóa từ biên giới Trung Quốc qua Việt Nam rất là nhiều và tôi cho rằng khoảng 70, 80% hàng hóa mà người Việt Nam sử dụng trong gia đình, trong mọi hoạt động thì xem như đều của Trung Quốc. Thời gian vừa rồi thì Việt Nam muốn mở rộng mối quan hệ qua các quốc gia khác, để việc xuất khẩu hàng của mình cũng như mối quan hệ về chính trị được cởi mở hơn. Tuy nhiên, tôi cho rằng đây là gần như là một cái gáo nước lạnh hắt vào mối quan hệ của Việt Nam, trong khi Việt Nam đang muốn mở rộng như vậy. Tất nhiên, khi cánh tay mình vươn qua bên kia không được, thì đương nhiên mình phải nối lại những cái mà mình đang có, để sự sống còn, sự phát triển của mình được tốt hơn.” Giới doanh nghiệp Việt Nam hiện đang trông ngóng kết quả đàm phán về thuế quan giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, bắt đầu vào ngày 23/04/2025, với cuộc điện đàm giữa bộ trưởng Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên với ông Jamieson Greer, Đại diện Thương mại của Nhà Trắng, Theo thông tin từ Vụ Phát triển Thị trường nước ngoài (bộ Công Thương), hai bên chỉ mới “thảo luận về những nguyên tắc cơ bản, phạm vi và lộ trình đàm phán”. Thời gian gấp rút vì việc áp thuế đối ứng chỉ được tạm hoãn trong 90 ngày.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 30/04 : Pháp và mối liên hệ với “Lực lượng thứ ba” ở miền Nam Việt Nam 16:01
16:01
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked16:01
Paris đã bí mật liên lạc với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngay từ năm 1965 về vấn đề thả con tin Pháp. Đối với Mặt trận, đây là cách để được công nhận ngoài phạm vi các nước cộng sản bạn hữu. Đối với Pháp, đây là bước đầu cho cuộc đối thoại có thể mang lại kết quả với một tân chính quyền ở Sài Gòn. Paris quan tâm đến “lực lượng thứ ba” trong chính giới miền Nam, cũng như trong cộng đồng người Việt tại Pháp và nội bộ Mặt trận. Chủ đề hiếm khi được nhắc đến được nhà ngoại giao Gérard Boivineau, nhân vật số 2 của Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam từ 1991-1994 và tổng lãnh sự Pháp tại thành phố Hồ Chí Minh từ 2008-2011, đề cập trong cuốn La Force introuvable (tạm dịch : Lực lượng khó tìm ), Vietnam 1965-1975 , sau ba năm nghiên cứu tài liệu lưu trữ của bộ Ngoại Giao Pháp. Ông dành cho RFI Tiếng Việt buổi phỏng vấn ngày 23/04/2025. RFI : Trong cuốn sách La Force introuvable (tạm dịch : Lực lượng khó tìm), ông nêu lên một chủ đề hiếm khi được đề cập. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Pháp nói chuyện với cả ba lực lượng ở Hà Nội, Sài Gòn và Mặt trận giải phóng miền nam Việt Nam, sau này là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Pháp tính toán gì vào thời kỳ đó ? Ông Gérard Boivineau : Thực ra Pháp không tính toán bất cứ điều gì. Pháp quan sát từ xa các sự kiện diễn ra ở Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh với Mỹ và việc Mỹ gia tăng can dự quân sự vào Việt Nam. Pháp lo cho số phận công dân của mình. Có khoảng hơn 10.000 người sinh sống ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam. Ngoài ra còn rất nhiều người sống ở nông thôn, chủ yếu ở Tây Nguyên và những khu vực không nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, mà dưới sự kiểm soát của lực lượng kháng chiến, thời điểm đó bắt đầu được gọi là Việt Cộng. Pháp muốn kín đáo biết làm thế nào để liên lạc với những đại diện có thẩm quyền của lực lượng đó, để cố gắng giải thoát những công dân bị Mặt trận bắt làm con tin, hoặc xem xét tổ chức tự do hoạt động thương mại, ví dụ cho các nhà phân phối bia hoặc chủ đồn điền trên cao nguyên. Và chúng ta biết rằng Mặt trận đã mở các đại diện bán ngoại giao ở các nước anh em hoặc bạn bè, đáng chú ý nhất là Tiệp Khắc vào thời điểm đó và Algérie. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Pháp và đại diện của Mặt trận đã diễn ra tại Alger (29/07/1965, trang 31) . Hai bên kết nối thành công vì Mặt trận cũng đang tìm cách hiện diện ngoài các nước cộng sản hay các nước anh em. Sáng kiến của Pháp được hoan nghênh phần nào. Mỗi bên đều có chương trình nghị sự riêng, như cách nói ngày nay. Pháp bận tâm đến số phận của những công dân trở thành nạn nhân bắt cóc hoặc tống tiền. Còn Mặt trận đang tìm cách mở rộng ra ngoài các nước cộng sản, sang các nước không trực tiếp tham gia vào cuộc xung đột, dù là về ý thức hệ hoặc hỗ trợ. RFI : Từ những cuộc tiếp xúc đầu tiên ở Alger, chính phủ Pháp và Mặt trận đã có nhiều cuộc tiếp xúc ở nhiều cấp độ trong những năm tiếp theo, tại Paris, Phnom Penh… Paris hỗ trợ gì cho Mặt trận ở Pháp ? Pháp trăn trở vấn đề gì ? Ông Gérard Boivineau : Điều thay đổi trong hành động ngoại giao, đó là lập trường được tướng De Gaulle khẳng định. Đặc biệt là trong bài phát biểu nổi tiếng tại Phnom Penh, tướng De Gaulle, lúc đó là tổng thống Pháp, công khai và thẳng thắn cho rằng Mỹ đã đi sai hướng. Theo ông, Hoa Kỳ leo thang quân sự là đi vào ngõ cụt. Tất nhiên lập trường của ông bị coi là lẻ loi trong phe phương Tây và không được hoan nghênh, nhưng dù sao đã cho phép ngành ngoại giao Pháp thiết lập mối liên hệ tự do hơn với Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Lúc đó Cam Bốt là một nước đồng minh với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc Việt Nam) và Mặt trận có một đại diện chính thức ở cấp rất cao tại thủ đô Phnom Penh. Các nhà lãnh đạo của Mặt trận có mặt ở Phnom Penh đã gặp các nhà ngoại giao Pháp, thậm chí là cả ngoại trưởng lúc đó tháp tùng tổng thống De Gaulle. Đó là điểm khởi đầu cho mối quan hệ ít phải che giấu hơn, tạm gác những quan ngại như lúc đàm phán ở Alger. Tuy nhiên, Paris vẫn chưa nhận được chấp thuận trả tự do cho những con tin Pháp. Nhưng dù sao cũng đã có một cuộc thảo luận ngoại giao với các nhà lãnh đạo Mặt trận. Lúc đó, Mặt trận đã xin phép và được chấp thuận để mở một Văn phòng báo chí tại Paris. Không ngờ rằng cơ quan báo chí này thực chất là một cơ quan của Mặt trận nhằm mục đích tăng cường ảnh hưởng của họ trong cộng đồng người Việt ở Pháp và dần dần hướng tới mục tiêu là được công nhận ngoại giao. RFI : Pháp cũng nói chuyện với với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, ra đời năm 1969 và được Mặt trận ủng hộ ? Ông Gérard Boivineau : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Mỹ cần khởi động tiến trình đàm phán (từ năm 1968) . Một số thủ đô đã được xem xét và cuối cùng Washington và Hà Nội cùng thỏa thuận chọn Paris. Các cuộc đàm phán dần dần được mở ra, rồi này sinh vấn đề nghi thức. Hai phái đoàn ở trong khu vực thuộc bộ Ngoại Giao, trên đại lộ Kléber (quận 16) nên còn được gọi là Hội nghị Kléber nhằm tái lập hòa bình. Phía Bắc Việt Nam yêu cầu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam được có mặt trong các cuộc đàm phán, dù phần nào chỉ ở bên lề. Từ đó, để được chú ý hơn, Mặt trận vẫn tiếp tục tồn tại nhưng song song đó đã quyết định thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Nói cách khác, những người đến Paris để làm đại diện cho Mặt trận thì tự động trở thành đại diện của chính quyền lâm thời miền Nam Việt Nam. Về phía Việt Nam Cộng Hòa, họ thấy có bên thứ ba tham gia hội nghị cho nên họ yêu cầu được tham gia vì có liên quan đến những gì diễn ra ở Việt Nam. Cuối cùng có 4 bên tham gia đàm phán. Tất nhiên, tất cả những chuyện này được thực hiện từng bước nhờ sự hỗ trợ của chính phủ Pháp, nhưng đó không phải là ý tưởng của Pháp. Chính phủ Pháp dần dần coi Chính phủ Cách mạng Lâm thời theo cách bán ngoại giao. Điều này giải thích cho các cuộc đàm phán vào thời điểm đó giữa một số nhà lãnh đạo của chính phủ lâm thời và bộ Ngoại Giao Pháp. Việc này kéo dài suốt thời gian diễn ra hội nghị hòa bình. RFI : Và cũng nhờ mối quan hệ phi chính thức với các bên, Pháp đã đóng vai trò trung gian đặc biệt cho việc giải quyết cuộc xung đột ? Ông Gérard Boivineau : Cũng không hẳn thế. Xin nhắc lại là Pháp không tính toán gì. Pháp chỉ lo tìm ra một giải pháp chính trị thỏa mãn tất cả các bên có mặt ở Paris. Nếu có một mục tiêu thì đó là duy trì ảnh hưởng kinh tế và văn hóa của Pháp ở miền Nam Việt Nam. Dĩ nhiên Pháp cũng không mong muốn một chính quyền cộng sản được thiết lập ở miền Nam, nhưng điều đó không hề được tính đến vào lúc đó. Nhờ nhiều lần tiếp xúc với Chính phủ Cách mạng Lâm thời trong khuôn khổ Hội nghị Hòa bình Kléber, Pháp đã nghe thấy người Việt Nam trong Chính phủ Lâm thời nói rằng “sự khác biệt giữa miền Bắc và miền Nam lớn đến mức mục tiêu thống nhất vẫn còn xa vời. Về nguyên tắc, chúng tôi khẳng định thống nhất đất nước, nhưng chúng tôi nhận thức được sự chênh lệch giữa hai miền Việt Nam. Thống nhất sẽ diễn ra một ngày nào đó, chỉ có thể là trong 10 hoặc 15 năm nữa”. Đây cũng là những con số do đại diện của Chính phủ Lâm thời đưa ra. Vì vậy, mục tiêu chính của Pháp không phải là tránh thiết lập một chế độ cộng sản ở Sài Gòn, vì họ biết rằng trong mọi trường hợp, ngay cả đối với những người phản đối cuộc chiến của Mỹ, đó là một mục tiêu. Nhưng mục tiêu đầu tiên là thiết lập hòa bình, cho phép tổ chức đàm phán với tất cả với những ai muốn thảo luận về hòa bình. Pháp không tính toán, nhưng có những tuyên bố rõ ràng rằng ,đối với Pháp, cần phải tránh để một chính quyền cộng sản hình thành trên toàn bộ Việt Nam. RFI : Tên của cuốn sách, tạm dịch là Lực lượng khó tìm , cũng làm liên tưởng đến Pháp, bởi vì Pháp đã cố gắng làm gì đó tránh để lực lượng Cộng sản nắm quyền trong chính phủ mới ở miền Nam, nhưng rút cuộc không thành ? Ông Gérard Boivineau : Pháp ở vị thế khá đặc biệt, là nước chủ nhà của Hội nghị Hòa bình. Ở đây cần phải nói sự việc theo đúng bản chất. Các cuộc đàm phán thật diễn một cách bí mật bên ngoài đại lộ Kléber, giữa Washington và Hà Nội, với sự đồng ý của chính phủ Pháp. Với tư cách là nước chủ nhà, Pháp không được đưa ra lập trường về bất cứ điều gì liên quan đến Hội nghị Hòa bình. Pháp lắng nghe bất kỳ bên nào muốn nói chuyện với họ. Chính quyền Sài Gòn tiếp xúc rất ít với Paris. Tôi không tìm thấy trong kho hồ sơ lưu trữ các báo cáo về cuộc họp giữa đại diện của Việt Nam Cộng Hòa với Quai d’Orsay (bộ Ngoại Giao). Ngược lại, Chính phủ Lâm thời họp ít nhất mỗi tuần một lần với phía Pháp, có thể thấy là thường xuyên, hết đại diện này đến đại diện khác. Đồng thời, cũng có nhiều cuộc thảo luận với phái đoàn miền Bắc Việt Nam, chưa phải là đại sứ quán vào thời điểm đó. Nhưng chủ yếu là với Chính phủ Lâm thời và bà Nguyễn Thị Bình. Bà được nhắc nhiều trong cuốn sách, tôi trích lại một số lượng lớn các cuộc thảo luận vào thời điểm đó giữa bà Bình với ngoại trưởng Pháp Maurice Schumann. Nhưng Paris không đưa ra sáng kiến về diễn biến của hội nghị. Vai trò của nước chủ nhà là tạo thuận lợi cho mọi việc về mặt nghi thức và tiến hành. Cho nên Pháp phần nào bị buộc phải lưu trữ thông tin, nhưng Pháp cũng phải thận trọng, đặc biệt là trong quan hệ với những đại diện của Chính phủ Lâm thời, luôn muốn nhiều hơn từ phía Pháp. Các thành viên của Chính phủ Lâm thời luôn cố gắng để có được sự công nhận chính thức nào đó, nhưng Pháp đã từ chối, viện dẫn sự trung lập của một nước chủ nhà. RFI : Tướng Dương Văn Minh, tổng thống Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng, dường như vẫn được gọi là “người của Pháp” (ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở Trường Sĩ quan Võ bị Quốc Gia Việt Nam do chính quyền Pháp tại Liên bang Đông Dương thành lập, từng tham gia Quân đội Thuộc địa Pháp) . Trong cuốn sách, ông cũng nói là “Minh đã để mất thời gian”. Liệu Pháp trông đợi gì đó vào tướng Dương Văn Minh ? Ông Gérard Boivineau : Không, tướng Dương Văn Minh không phải là người của Pháp, mà cũng không phải là người của Mỹ. Đơn giản là người ta không tìm được một chính trị gia ở miền Nam Việt Nam có thể đoàn kết thành các phần chính trị, gồm những người phản đối chế độ Nguyễn Văn Thiệu nhưng cũng không ủng hộ Cộng sản. Người ta gọi thành phần này là “trung lập” hoặc “dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản”. Lực lượng này được thể hiện rất rõ ở Paris lẫn ở Sài Gòn. Báo chí Sài Gòn lúc đó tương đối tự do, nghĩa là một tờ báo chống tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị đóng cửa thì tờ báo đó sẽ được tái sinh dưới một tên khác. Tiếp theo, có nhiều dân biểu phản đối ông Thiệu. Nhờ phần nào được bảo vệ bởi quyền miễn trừ đại biểu Quốc Hội, họ có thể tự do bày tỏ ý kiến mà không sợ bị bỏ tù, hoặc bị buộc tội là thân cộng sản. Nhiều người trong số họ thậm chí đến Paris để gặp cộng đồng người Việt. Lúc đó, người Việt ở Paris được cả Chính phủ Lâm thời và bộ phận theo khuynh hướng chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản lấy lòng. Nhưng thành phần “trung lập” hoặc “dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản” ở Sài Gòn cũng như ở Paris có đặc điểm là phân mảnh, khác biệt, thiếu gắn kết, thậm chí có xu hướng không tự tổ chức. Trong số những nhân vật có khả năng một ngày nào đó sẽ lên nắm quyền, thay thế Nguyễn Văn Thiệu có Dương Văn Minh. Tướng Minh được nể trọng vì có vai trò trong sự sụp đổ của chế độ tổng thống Ngô Đình Diệm. Sau đó, ông phản đối một số tướng lĩnh cũng tham gia đảo chính và bị buộc sống lưu vong ở Thái Lan. Nhờ vậy ông thoát được thời kỳ đầy rẫy xung đột giữa các tướng lĩnh, tham nhũng… Ông trở về Việt Nam với danh tiếng là một người chính trực, không tham nhũng, tránh bị tiếng được thiên vị. Ông ra tranh cử tổng thống với ông Thiệu năm 1971. Nhưng phía Mỹ lại có vẻ thiếu khéo léo, thực sự là không biết tại sao. Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đã có một cuộc họp với tướng Minh và sau cuộc họp, ông Minh có cảm giác rằng người Mỹ có lẽ đang chế giễu ông và muốn hối thúc ông ra ứng cử tổng thống để tạo vẻ ngoài dân chủ ở miền Nam Việt Nam. Đại sứ Mỹ thậm chí còn đề nghị tài trợ cho chiến dịch của ông. Thế là quá đủ ! Tướng Minh cảm thấy bị gài bẫy. Và để tránh bị sập bẫy, ông ấy đã rút lui. Ngoài ra còn có một ứng cử viên thứ ba là Nguyễn Cao Kỳ, phó tổng thống và ủng hộ tổng thống Thiệu. Tuy nhiên, tư cách ứng cử của ông đã bị hủy trong hoàn cảnh khá mơ hồ. Ông Thiệu trở thành ứng cử viên duy nhất và tất nhiên là đã thắng cử. Nhiều người có thể đã tiếc là nếu ông Dương Văn Minh tiếp tục tranh cử, có lẽ sẽ biết được bao nhiêu phần trăm người dân ủng hộ ông, cho dù có rất ít cơ hội chiến thắng, nhưng dù sao thì cũng đáng thử. Sau đó, ông Dương Văn Minh cũng có những phát biểu sau khi Hiệp định Paris được ký vào tháng 01/1973. Còn tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận Hiệp định Paris và ông làm mọi cách để các điều khoản không được áp dụng, nhất là sự xuất hiện của “lực lượng thứ ba” - tôi dùng đúng các từ ngữ trong Hiệp định Paris năm 1973. Tổng thống Thiệu muốn “lực lượng thứ ba” này không bao giờ được hình thành và tồn tại. Ông cũng từ chối thả tù chính trị, tiếp tục chính sách độc tài chống lại những người đối lập. Miền Bắc Việt Nam cho rằng không còn giải pháp nào khác để đạt được mục tiêu thống nhất đất nước ngoài biện pháp quân sự. Năm 1974, một năm sau Hiệp định Paris, họ bắt đầu một số cuộc tấn công để thử sức kháng cự của chính quyền Sài Gòn, nhưng trên hết là để chắc chắn rằng Mỹ sẽ không can thiệp. RFI : Pháp là một trong ba nước duy nhất duy trì đại sứ quán ngay sau ngày 30/04/1975. Liệu đây có phải là một thành công cho hoạt động ngoại giao của Pháp ? Pháp duy trì liên lạc với chính quyền mới ở Việt Nam sau ngày này như thế nào ? Ông Gérard Boivineau : Đối thoại chưa bao giờ ngừng giữa Paris và Hà Nội. Pháp có một đại diện toàn quyền Pierre Susini, không may là ông bị thiệt mạng trong một cuộc không kích của Mỹ năm 1972. Nhưng sau Hiệp định Paris 1973, Pháp đã thiết lập quan hệ ngoại giao : Cơ quan tổng đại diện trở thành đại sứ quán, một đại sứ được bổ nhiệm ở Hà Nội và tổng lãnh sự quán đặt tại Sài Gòn, do trước đó không còn vì quan hệ ngoại giao bị gián đoạn bởi chính quyền của thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ lúc bấy giờ. Nói tóm lại, Pháp có đại diện ở Sài Gòn cũng như ở Hà Nội và đối thoại được tiếp tục ở cả miền Bắc, Nam. Vào cuối tháng 03/1975, người ta thấy rằng Hiệp định Paris không được thực hiện. Quân đội miền Bắc Việt Nam bắt đầu tấn công và đạt được thành công, chiếm lại thành phố Đà Nẵng và vùng cao nguyên. Còn quân đội, thực sự là không biết đó là quân đội Bắc Việt hay của Chính phủ Lâm thời, hướng xuống miền nam, tiến về Sài Gòn, giành nhiều thắng lợi nhưng cũng có thất bại. Vào cuối tháng 03/1975, Pháp quyết định bổ nhiệm một đại diện ngoại giao (ông Michel Huriet) bên cạnh Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, tạm đóng trong khuôn viên đại sứ quán Pháp ở Hà Nội, nhưng không phải là thành viên của đại sứ quán và có quyền tự chủ riêng. Lúc đầu, người này được giới thiệu là đứng đầu một phái đoàn đại diện, sau đó ông trở thành đại biện. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là trình quốc thư, không phải với chủ tịch của Chính phủ Lâm thời, mà là với ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình. Ông ở lại Hà Nội suốt tháng 04 và 05/1975, rồi dần dần nhận ra rằng ông sẽ không bao giờ được gặp ai nữa. Và cuối cùng là đại sứ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - miền Bắc Việt Nam - cũng được bổ nhiệm làm đại sứ Chính phủ Lâm thời. Tất cả diễn ra vào năm 1975, và tiến triển rất nhanh. Lúc đó, người ta bắt đầu nói về việc thống nhất đất nước sớm. Đại sứ Pháp có mặt ngày 30/04/1975 ở Sài Gòn nghĩ rằng ông sẽ tiếp tục là đại sứ bên cạnh chính quyền mới ở miền Nam Việt Nam, ngay cả khi không phải là tổng thống Dương Văn Minh nữa, vì chính phủ của ông được thành lập ngày 28/04 đã bị lật đổ ngày 30/04. Pháp không biết phải liên lạc với ai. Lúc đó, phía Việt Nam phụ trách ở Sài Gòn là một ủy ban quân quản do tướng Trần Văn Trà đứng đầu và ông không có mối quan hệ với bất kỳ ai. Sau ngày 30/04/1975, ở Sài Gòn chỉ còn ba cơ quan đại diện hoạt động : Bỉ, Thụy Sĩ với một đại biện lâm thời và khâm sứ Tòa Thánh. Tuy nhiên, khâm sứ Tòa Thánh đã phải rời Sài Gòn vào tháng 08/1975. Nhưng Pháp vẫn có một đại sứ, một nhân vật số 2, một nhân vật số 3, một cơ cấu chính trị nhưng lại không gặp được ai, trong khi người ta biết rõ rằng ngay từ đầu đã có một bộ phận trong chính phủ hoạt động, đó là bộ Ngoại Giao, không phải với bà Nguyễn Thị Bình vì bà tiếp tục đi khắp thế giới để ký các thỏa thuận cung cấp hydrocarbon, mà với nhân vật số 2. Đối với chính quyền mới tại Sài Gòn, đại sứ quán Pháp không tồn tại và họ chỉ trao đổi với đại sứ quán Pháp về các vấn đề hành chính và lãnh sự, bởi vì vẫn có đến 10.000 người Pháp sống ở Sài Gòn. Chỉ ở điểm này Pháp mới có người đối thoại và chỉ hoàn toàn về vấn đề lãnh sự và hành chính. Nói tóm lại, trước khi chính quyền tướng Minh bị lật đổ, Pháp có ba cơ quan đại diện ở Việt Nam : một đại sứ quán ở Sài Gòn, một đại sứ quán ở Hà Nội và một đại diện có địa vị ngoại giao thấp hơn đại sứ tại chính phủ lâm thời. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ông Gérard Boivineau, nhân vật số 2 của Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam từ 1991-1994 và tổng lãnh sự Pháp tại thành phố Hồ Chí Minh từ 2008-2011.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Anh và giải pháp công nhận hai nước Việt Nam sau Hòa đàm Paris 1973 8:45
8:45
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked8:45
Dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh, thống nhất Việt Nam (1975-2025), là thời điểm tốt để đánh giá lại vai trò của Anh trong 10 năm cuối cùng của “The Vietnam War”. Khi đó Anh tiếp tục đóng vai trò giám sát ở cương vị nước đồng chủ tịch (cùng Liên Xô) của Hội nghị quốc tế Geneva 1954. Khác Hoa Kỳ, Anh quốc sau Hòa đàm Paris đã công nhận cả hai nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNNDCCH) và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), trong khi Mỹ sau khi rút khỏi Nam Việt Nam thì phải đến 1995 mới bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam thống nhất. Nhà báo Nguyễn Giang ở Luân Đôn, thông tín viên đài RFI tiếng Việt, đã nghiên cứu chủ đề này. RFI : Bối cảnh lịch sử nào khiến Anh bước chân vào Đông Dương? TTV Nguyễn Giang : Câu chuyện ngày nay ít người nói tới là quân đội Anh có một cuộc chiến ở Nam Bộ cuối năm 1945 sang đầu năm 1946, khi phong trào giành độc lập của Việt Minh và các đảng phái, tổ chức khác lên cao nhằm đòi chủ quyền cho Việt Nam sau hơn 80 năm Pháp cai trị. Tôi tìm hiểu tài liệu do T.O. Smith công bố ở Đại học East Anglia thì được biết là sau Hội nghị Potsdam tháng 7/1945, tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ, tướng George C. Marshall đã yêu cầu tư lệnh người Anh của Quân Đồng minh tại Đông Nam Á, đô đốc Louis Mountbatten, tiếp quản khu vực phía Nam đường vĩ tuyến 16 chia đôi Đông Dương. Thế nhưng, Anh tham gia vào việc giải giáp quân đội Nhật một cách miễn cưỡng và không muốn dính líu sâu vào Đông Dương. Cùng lúc, các chính trị gia bị tác động bởi quan điểm chủ đạo của bộ Ngoại Giao Anh (Foreign Office) về tình hình châu Âu hậu chiến, rằng "một nước Pháp mạnh tại châu Âu sẽ giúp cho an ninh của Anh". Nhưng một nước Pháp ở châu Âu đã là nước thua trận, đầu hàng phát-xít Đức và chỉ có lực lượng Pháp Tự do của tướng De Gaulle lưu vong tại Anh là có một góc ở chiếc bàn của phe thắng trận. Tôi đã tới thăm bảo tàng nhỏ ở London nơi có tượng tướng de Gaulle và là trụ sở của phe Pháp Tự do dựa vào Đồng minh Anh-Mỹ để phục quốc từ tháng 06/1940 đến tháng 06/1944, sau khi Paris được giải phóng thì ông de Gaulle trở về Pháp. Văn phòng rất nhỏ và các sĩ quan Pháp thường chọn một quán bia ở trung tâm London để họp hành, bởi gọi là chính phủ kháng chiến nhưng thực ra họ không có cơ sở gì nhiều. Giai đoạn hậu chiến đó, nước Pháp cần hùng mạnh trở lại và theo Charles de Gaulle, thì nước Pháp phải giành lại Đông Dương đã thuộc về tay phát-xít Nhật và chính quyền Vichy. Với tâm lý mâu thuẫn đó trong việc ủng hộ Pháp hay là không, sư đoàn Anh-Ấn do tướng Douglas Gracey (1894 - 1964) chỉ huy đã tới Nam Bộ từ tháng 9/1945 đến tháng 5/1946. Ngày 27/12/1945 tại Sài Gòn, tướng Gracey, trong một buổi lễ đầy tính biểu tượng, đã trao thanh kiếm danh dự cho nữ công dân Pháp Suzi Pinel, thành viên của Lực lượng Pháp Tự do hoạt động bí mật chống Nhật ở Đông Dương trong Thế Chiến 2. Các Pháp kiều sau đó đã tự tổ chức lại và phần nào được Anh hỗ trợ để đánh lại Việt Minh. Đã có các cuộc giao tranh giữa quân Anh và Việt Minh. RFI : Cuối cùng thì người Anh đã rút đi và trao lại Nam Bộ cho Pháp, khiến cuộc kháng chiến của người Việt Nam chống Pháp bùng nổ ? Và thái độ của nước Anh ra sao? TTV Nguyễn Giang : Có thể nói là các sĩ quan chỉ huy của Anh ở Sài Gòn sống trong tâm lý giằng co giữa quyền lợi “thực dân đế quốc” truyền thống của người châu Âu, tức là họ hỗ trợ Pháp kiều một cách tự nhiên, và thái độ muốn tỏ ra công bằng (fair play) với người dân và các chính thể mới thoát ra từ chủ nghĩa thực dân hậu chiến để kiến thiết nền độc lập còn non trẻ của họ . Có câu chuyện là các sĩ quan Anh đã làm lễ mai táng rất trọng thị cho tiểu đội các chiến sĩ Việt Minh tử trận để bảo vệ Cột cờ Thủ Ngữ (23/09/1945). Người sĩ quan Anh ra lệnh cho đại đội của ông ta xếp hàng, bồng súng chào hương hồn những người anh hùng của đối phương đã ngã xuống dưới chân cột cờ. Quân Anh rút đi sau khi bàn giao lại Sài Gòn cho quân Pháp vào mùa Xuân 1946. RFI : Khi bước vào Chiến tranh Lạnh, Anh quốc có vai trò gì và giữ quan điểm ra sao với Việt Nam? TTV Nguyễn Giang : Khi cuộc Kháng chiến chống Pháp của người Việt Nam kết thúc thắng lợi, nhờ có vai trò ở Hội đồng Bảo an LHQ sau Thế chiến II, Anh tham gia Hòa đàm Geneva (1954) và có vai trò đồng chủ tịch (co-chairman) cùng Liên Xô. Bởi vậy, London sau khi công nhận VNCH vẫn có một cơ quan lãnh sự tại Hà Nội và là quốc gia châu Âu duy nhất có thể tác động tới Hoa Kỳ trong chính sách của Washington ở Đông Dương những năm sau đó. Điều này được xác nhận bởi các tài liệu giải mật sau này, cho thấy vào những thời điểm quan trọng nhất của Mỹ ở Nam Việt Nam, lãnh đạo Mỹ “chỉ còn có hai đồng minh đáng tin cậy là Anh và Úc” - theo lời phó tổng thống Hubert Humphrey nói với thủ tướng Anh Harold Wilson vào tháng 4/1967. Nước Pháp, với thái độ bài Mỹ khá công khai của tổng thống Charles de Gaulle, thì hoàn toàn không được hoan nghênh trong chính giới Washington. RFI : Quan điểm của London có thay đổi gì không khi chiến sự diễn ra ác liệt ở Nam Việt Nam? Và nhất là sau khi Hoa Kỳ quyết định đổ quân vào tham chiến để bảo vệ VNCH. TTV Nguyễn Giang : Ngay khi Hoa Kỳ đổ quân vào Nam Việt Nam ngày 08/03/1965, giới chức ngoại giao Anh đã bắt đầu nhận thấy đồng minh Hoa Kỳ không thể thắng ở Nam Việt Nam và kín đáo chia sẻ quan điểm về cuộc chiến “unwinnable” trong nội bộ chính quyền Anh. Các tài liệu giải mật - trích theo nhà nghiên cứu Mark Curtis - cho hay ngay từ khi đó, Anh đã tiếp cận Liên Xô để bàn về một giải pháp như Hiệp định Geneva 1954 cho vấn đề Việt Nam. Giải pháp này dự tính yêu cầu quân đội nước ngoài rút khỏi Nam Việt Nam và tổ chức bầu cử tự do ở đó, còn miền Bắc sẽ phải trung lập hóa. Cách ứng xử của Anh trong các năm tiếp theo là ủng hộ Mỹ bề ngoại nhưng cũng tìm cách cho người Mỹ thấy “lối thoát” khỏi chiến trường Nam Việt Nam. Cùng lúc, giới an ninh và quân đội Anh vẫn đóng vai trò phụ trợ cho quân đội Hoa Kỳ ở Đông Dương, gồm cả việc cung cấp tin tình báo phục vụ không quân Mỹ từ trạm thông tin đóng ở Hồng Kông (khi đó vẫn thuộc Anh). Sau giai đoạn thủ tướng Anh Harold Wilson làm việc với tổng thống Mỹ Lyndon Johnson, tân chính phủ của Edward Heath năm 1970 phải làm việc với tổng thống Richard Nixon. Ở nhiệm kỳ này, chính phủ của ông Heath ủng hộ công khai hơn một giải pháp “rút lui danh dự cho người Mỹ” khỏi Nam Việt Nam, như lời ông nói trên truyền hình Mỹ CBS vào tháng 12 năm đó. RFI : Xin anh cho biết là cuối cùng Anh đi đến giải pháp công nhận cả hai chính thể ở hai miền Nam - Bắc VN như thế nào? TTV Nguyễn Giang : Các tài liệu nay đã giải mật nói rằng sang năm 1972, Anh tích cực hơn trong việc tiếp xúc với VNDCCH ở cấp cao, tuy không phải là cấp cao nhất. Có vẻ Anh thay đổi thái độ, dấn vào các vấn đề châu Á liên quan đến Trung Quốc và Miền Bắc VN nhiều hơn sau khi vào tháng 02/1972, Chu Ân Lai và Richard Nixon tung ra Thông cáo chung Thượng Hải, tạo bước ngoặt địa chính trị lớn trong cục diện Chiến tranh Lạnh ở châu Á. Ngay vào tháng 06/1972, ngoại trưởng Anh Anthony Royle thực hiện gần một chuyến thăm quan trọng sang Trung Quốc. Việc tham vấn hoặc trao đổi với Đại sứ quán Anh tại Bắc Kinh về chiến tranh tại Đông Dương được thực hiện và các nhà ngoại giao Anh tại Bắc Kinh cùng các nhà ngoại giao VNDCCH đã gặp gỡ. Đây là thời kỳ chính phủ của ông Edward Heath bị giằng co giữa quan hệ Anh - Mỹ, nhu cầu gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC - tiền thân của EU) và phần dư luận phản chiến khá mạnh mẽ ở trong nước. Tuy thế, về ngoại giao, với vị thế đặc biệt của mình, Anh tiến tới giải pháp công nhận cả hai nước Việt Nam. Ngày 17/07/1973, đề xuất "công nhận Bắc Việt Nam" được đưa ra thảo luận tại Quốc hội Anh ở Điện Westminster. Các hồ sơ về sự kiện này vẫn giữ trên trang lưu trữ (Hansard archive- Volume 860 debate-North Vietnam ) tại Nghị viện Anh và ghi lại các đoạn trả lời của Ngoại trưởng Anthony Royle đáp trả chất vấn của các nghị sĩ : "Đại sứ quán của chúng ta ở Bắc Kinh đã đề nghị với Đại sứ quán của VNDCCH cuộc thảo luận theo hướng để thiết lập quan hệ ngoại giao. Nay, chúng tôi công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô ở Hà Nội và lãnh thổ nằm ở phía bắc đường phi quân sự theo Hiệp định Geneva 1954 [vĩ tuyến 17-BBC]. Chúng ta vẫn tiếp tục công nhận Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, với thủ đô ở Sài Gòn, là chính quyền hợp pháp duy nhất của Nam Việt Nam, với lãnh thổ nằm phía Nam đường giới tuyến tạm thời đó." Anh có vẻ cố duy trì quan điểm hình thành từ năm 1954, mà không muốn thấy sự thay đổi cán cân lực lượng trên chiến trường đã nghiêng hẳn về VNDCCH và lực lượng Mặt trận. Đây là lý do London công nhận cả hai nước Việt Nam, trong khi vẫn coi đường phân định Nam-Bắc chỉ là tạm thời, " provisional military demarcation line ", theo đúng Hiệp định Geneva. Như thế, quan điểm của Anh khác các nước XHCN ở Đông Âu khi đó, bởi vì họ, cùng Liên Xô, công nhận VNDCCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam nhưng không công nhận VNCH. Còn Mỹ thì không công nhận VNDCCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam cho đến 1975, và chỉ lập quan hệ ngoại giao với nước VN thống nhất vào năm 1995, sau Anh rất lâu. Có thể để làm vừa lòng Hoa Kỳ, bộ Ngoại Giao Anh nêu quan điểm vào ngày 17/07/1973, "sẽ không công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam". Năm 1975, ông Stewart trở lại Hà Nội ở cương vị Đại sứ Vương quốc Anh đầu tiên ở nước Việt Nam thống nhất. Quan hệ Anh-Việt bước sang một thời kỳ mới.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam : « Đồng minh » của Mỹ, người trong cuộc nghĩ gì ? 14:44
14:44
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked14:44
« Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ nhưng làm bạn với họ thì thật là khó » bởi vì « chính sách của Hoa Kỳ nay thế này mai thế khác (...) » . Tâm sự này của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu vào thời điểm năm 1975/1976 làm mọi người nhớ đến một trong những nhà ngoại giao lỗi lạc nhất của Mỹ với câu nói để đời : « Làm kẻ thù của Mỹ có thể nguy hiểm. Làm bạn với Mỹ là mối nguy hiểm chết người ». Nhân kỷ niệm 50 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam, RFI Tiếng Việt mời giáo sư tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng trở lại với sự kiện Ngày 30 tháng 4 năm 1975. Là một chuyên gia kinh tế, ông từng giảng dạy tại nhiều đại học danh tiếng ở Hoa Kỳ trước và sau năm 1975, nguyên là kinh tế gia của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Trong nửa đầu thập niên 1970, giáo sư Nguyễn Tiến Hưng là phụ tá của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phụ trách Tái Thiết và đứng đầu bộ Kế Hoạch và Phát Triển. Là người trong cuộc, nhân chứng hàng đầu trong một giai đoạn lịch sử của Việt Nam ở thế kỷ 20, giáo sư Hưng đã ra mắt độc giả nhiều tác phẩm về giai đoạn này 1 . Mùa xuân năm 2024, ông đã cho phát hành cuốn « Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm » - Nhà xuất bản Hứa Chấn Minh. ***** RFI : Xin kính chào giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Cảm ơn ông nhận trả lời Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp. Trước hết, xin giáo sư kể lại một kỷ niệm của Ngày 30 tháng 4 năm 1975. GS Nguyễn Tiến Hưng : Vâng thưa cô Thanh Hà, ngày 30/04/1975 tôi đang có mặt ngay tại thủ đô Washington nhờ một cơ duyên lịch sử tôi đã được chứng kiến toàn bộ tiến trình của cuộc chiến Việt Nam. Cuộc chiến này bắt đầu khi tổng thống John F. Kennedy quyết định dấn thân vào Việt Nam và viết thư cho tổng thống Ngô Đình Diệm là « Hoa Kỳ sẵn sàng tiếp tay với Việt Nam Cộng Hòa, tăng cường nỗ lực chiến đấu. Phải chiến đấu thắng Cộng sản ». Hôm ấy là ngày 11/05/1961. Cho đến khi nghe tổng thống Gerald Ford tuyên bố : « Đối với nước Mỹ, cuộc chiến Việt Nam đã xong rồi. Ta hãy quên đi quá khứ và nhìn về tương lai ». Hôm đó là ngày 27/04/1975. Rồi ba ngày sau ông im lặng nhìn Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Ngày 30 tháng 4 là ngày dài nhất và đau lòng nhất trong đời tôi : Dài nhất vì tôi đã thức trắng đêm 29 để chuẩn bị cho cuộc họp báo ngày 30 tháng 4. Đau lòng nhất vì tôi không những nhìn thấy sự bi thương của đồng bào miền Nam đang bị bỏ rơi mà còn cảm giác cay đắng về sự phản bội của đồng minh, từng được xem là đồng minh chiến lược. RFI : Vì sao giáo sư đã có mặt tại Washington trong những ngày 29 và 30 tháng 4 ? GS Nguyễn Tiến Hưng : Về nhiệm vụ của tôi Ngày 30 tháng 4, bối cảnh là như thế này : Ngày 19/04/1975, Quốc Hội Mỹ dự trù biểu quyết để xem có tiếp tục viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa nữa hay không. Tin tức Dinh Độc Lập có được thì rất là tuyệt vọng. Ngày 14 tháng 4, tức là chỉ hai tuần trước khi Sài Gòn sụp đổ, tổng thống Thiệu chỉ thị tôi phải đi ngay Washington cùng với ngoại trưởng Vương Văn Bắc và đại sứ Trần Kim Phượng. Chúng tôi phải đưa ra một giải pháp tức là yêu cầu Mỹ cho vay ba tỷ đô la trong 3 năm, rồi chúng tôi sẽ hoàn lại hết. Mục đích của giải pháp này là để Quốc Hội Mỹ đừng quyết định ngừng viện trợ cho miền Nam Việt Nam và tuyên bố cho cả thế giới biết vào ngày 19/04/1975. Tôi lên máy bay sáng sớm ngày 15/04/1975 tại Tân Sơn Nhất. Sang đến Washington thì Quốc Hội đã hành động xong rồi. Rất là đau đớn. Tôi liền thay đổi mục tiêu và hướng đến việc kêu gọi cứu vớt đoàn người tị nạn đang túa ra Biển Đông. Sau đó thì Quốc Hội cấp một khoản tiền 455 triệu đô la để tài trợ cho chương trình định cư. RFI : Trong cuốn sách giáo sư cho ra mắt bạn đọc mùa xuân 2024, « Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm », do thời gian có hạn nên xin phép tập trung vào phần 2 của cuốn sách : Một Kế Sách, tám thủ đoạn. Giáo sư giải thích Henry Kissinger, người sau này trở thành ngoại trưởng Hoa Kỳ và có lúc kiêm nhiệm luôn cả chức Cố Vấn An Ninh Quốc Gia dưới 2 thời tổng thống Nixon và Ford, « ít nhất là đã hình thành kế sách Decent Interval từ năm 1967 » (tr.141). Thưa ông chiến lược đó là gì ? GS Nguyễn Tiến Hưng : Tựa đề Bức tử Việt Nam Cộng Hòa, tôi nghĩ là đã nói lên tất cả rồi. Cuốn sách là một lời cáo trạng lịch sử dựa trên Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập mà tôi rất may mắn còn giữ được. Vì nếu mà tôi không giữ được hồ sơ đó thì không ai biết được chuyện Việt Nam Cộng Hòa kết thúc như thế nào, vì Kissinger đã giấu đi hết. Chiến lược Decent Interval của ông ấy là làm thế nào để có một « Khoảng thời gian coi cho được », để khỏi mất danh dự : Kissinger quan niệm Mỹ không thể nào chiến thắng ở cuộc chiến Việt Nam, bởi đây là một cuộc chiến du kích mà Mỹ thì không quen với chiến tranh du kích : Thế Chiến Thứ Nhất, Thế Chiến Thứ Hai, Chiến Tranh Triều Tiên đều là chiến tranh quy ước. Thành thử Henry Kissinger đã nghĩ ra chiêu bài Decent Interval : miễn là làm sao có được một khoảng thời gian - như là độ vài năm, từ khi Mỹ rút lui khỏi miền Nam cho đến khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Vì như vậy không mang tiếng là bỏ rơi đồng minh. Để thi hành chiến được đó, Kissinger phải dùng đến thủ đoạn. Ông ấy đã nghĩ rằng chỉ còn cách là đạt được một hiệp định : Hiệp Định Paris cho phép nước Mỹ « ra đi » một cách danh chính ngôn thuận. Ông Kissinger cố gắng hết sức trong bí mật điều đình với Miền Bắc để Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27/01/1973. Tôi đang trả lời phỏng vấn với đài RFI bên Paris, thì cái chữ Paris nó dính liền với óc tôi rất là sâu đậm vì Hiệp Định Paris và trước đó nữa thì cũng đã có những sự kiện về chiến tranh Việt Nam cũng xảy ra ở Paris . ‘Kissinger nói với TT Nixon rằng bỏ Miền Nam Việt Nam sẽ chẳng ảnh hưởng gì tới chính sách ngoại giao của Mỹ ! (tr.194) RFI : Như tựa đề phần 2 trong cuốn sách Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm, tám thủ đoạn đó gồm Dối gạt tổng thống Nixon, Nhân danh ông Nixon gây áp lực với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Vẽ một kế hoạch tối mật để thuyết phục đồng minh là Việt Nam Cộng Hòa, Tung hỏa mù Quốc Hội Mỹ, Che mắt luôn cả tổng thống Ford… Nhưng theo giáo sư trong số này, thủ đoạn nào là nham hiểm nhất ? GS Nguyễn Tiến Hưng : Có lẽ thủ đoạn nham hiểm nhất là lừa dối tổng thống Nixon. Khi Nixon lên cầm quyền tháng 1/1969, ông đã hứa sẽ đem lại một giải pháp hòa bình cho Việt Nam – Vừa hòa bình vừa danh dự, chứ không phải là một cái hiệp định để che giấu sự thất bại. Thế nhưng Kissinger « giỏi » lắm. Ông ấy « tài ba » lắm : Kissinger đã che đậy thất bại của ông ấy sau 4 năm hòa đàm. Tổng thống Nixon thì không tin vào đàm phán mà chỉ tin vào chương trình mà ông gọi là « Việt Nam hóa » tức là giúp cho miền Nam tự lực tự cường để một mình có thể chiến đấu được, tồn tại được. Kissinger thì ngược lại : ông ấy không tin vào giải pháp Việt Nam hóa của Nixon và đã thuyết phục tổng thống rằng tại sao chủ trương Việt Nam hóa sẽ không thành công. Theo Kissinger, « mấy người lính Việt Nam thì làm sao mà đánh lại được như là người Mỹ mà Hoa Kỳ đã huy động đến nửa triệu lính Mỹ còn không ăn thua » . Trong hoàn cảnh đó, tổng thống Nixon cứ để cho ông Kissinger tiến hành đàm phán và đại khái là ông ấy đã đánh lừa được tổng thống Nixon. Kissinger thuyết phục được Nixon là hiệp định này (Hiệp Định Paris) có lợi cho miền Nam chứ không phải là có hại cho miền Nam. Câu hỏi là tại sao ông Nixon, một chính trị gia cáo già mà lại có thể tin được như vậy. Cái chuyện đó là như thế này và đã được chính tổng thống Nixon viết lại trong hồi ký của ông : Kissinger cứ báo cáo với tổng thống rằng Hiệp Định Paris « C hỉ là một phương cách để cho Bắc Việt giữ được thể diện thôi, chứ còn họ (Hà Nội) đã nhượng bộ hết rồi, không có gì cả » . Thì cái nham hiểm nhất ở đây là đánh lừa Nixon. Mà dù Nixon là cáo già chính trị cũng đã tin, vì ông Kissinger quá tài ba mà tổng thống Nixon thì lại lơ là không để ý đến đàm phán. Sau Nixon, một nguy hiểm khác là Henry Kissinger cũng đã giấu tổng thống Ford khi mà ông Ford lên thay thế tổng thống Nixon ngày 08/08/1974 (ngày mà mà tôi gọi là ngày Song Bát). Ông Ford không biết gì hết. Một ngày sau khi nhậm chức (09/08/1974) tổng thống Ford viết thư cho tổng thống Thiệu và cam kết « Tất cả những gì mà nước tôi đã hứa hẹn thì sẽ được hoàn toàn tiếp tục và sẽ được tuân thủ trong nhiệm kỳ của tôi » RFI : Ngày 30 tháng Tư là hồi kết của chế độ Sài Gòn, với những hệ quả mà ai cũng biết. Nhưng đây cũng là một cột mốc quan trọng đối với hình ảnh và uy tín của Hoa Kỳ trong bang giao quốc tế … GS Nguyễn Tiến Hưng : Đúng như vậy. Hậu quả của chiến tranh Việt Nam đối với Mỹ còn kéo dài cho đến ngày hôm nay. Thứ nhất, bạn bè đồng minh của Mỹ không còn dám tin cậy vào Mỹ. Đồng minh khắp nơi đều dè dặt khi phải hợp tác với Hoa Kỳ vì sợ rằng lại trở thành Việt Nam Cộng Hòa thứ hai. Điểm thứ nhì – và đây mới là điều quan trọng : Kẻ thù thì coi thường nước Mỹ. Sau cuộc chiến Việt Nam 1975, thì đến cuộc Cách Mạng Iran năm 1979. Iran bắt toàn bộ nhân viên của tòa đại sứ Mỹ tại Teheran, rồi đối đầu với Mỹ cho đến ngày hôm nay. Sau Iran đến Irak cũng tại Trung Đông. Tổng thống Irak Saddam Hussein đã xem thường Mỹ khi nói « Một nửa triệu quân ở Việt Nam còn chẳng làm gì được mà bây giờ còn bày đặt sang Irak để chiến đấu. Irak không phải là cái chỗ để đi picnic ! » Thời tổng thống Bush - hình như là năm 2001 hay 2002 gì đấy, đã tiết lộ, tình báo Mỹ CIA đã chặn được lệnh của Ayman Al Zawahiri (nhân vật số 2 tổ chức Al Qaeda tại Afghanistan) cho cấp dưới của ông ấy rằng : « Những hậu quả của sự sụp đổ của Hoa Kỳ tại Việt Nam, việc họ bỏ chạy và bỏ rơi những người đã theo họ làm cho chúng ta nên suy nghĩ. Ta phải sẵn sàng ngay từ bây giờ ! » . Đến ngày 15/08/2021, cả thế giới đã chứng kiến cuộc tháo chạy ê chề khỏi Kabul. RFI : Còn trên hồ sơ Ukraina hiện tại thưa giáo sư ? GS Nguyễn Tiến Hưng : Về Ukraina, tôi nghĩ rằng ông Putin cũng đã thấy bài học Việt Nam khi đưa quân xâm được Ukraina năm 2022. Có khả năng rất cao tổng thống Nga quan niệm dù Mỹ có viện trợ dồi dào nhưng nếu kéo dài cuộc chiến ít lâu thì rồi Mỹ cũng phải buông tay. (…) Tuy nhiên, tổng thống Zelensky vẫn còn một phương tiện để điều đình : Hoa Kỳ đang rất cần đất hiếm của Ukraina khi mà Trung Quốc đã bắt đầu ngừng xuất cảng đất hiếm sang Mỹ (…) Zelensky có tài nguyên khoáng sản để giữ Mỹ lại một phần nào. Hơn nữa Ukraina giờ đây có cả khối Âu châu yểm trợ. 50 năm trước Miền Nam Việt Nam cô đơn một mình. Tôi còn nhớ ngày 21/12/2022 sau khi được Quốc Hội Mỹ tiếp đón nồng hậu, ra khỏi Quốc Hội, tổng thống Zelensky trông đã rất vui vẻ. Sau đó, tôi đã chia sẻ quan điểm rằng dù có nhận được gói viện trợ hào phóng thì Ukraina cũng vẫn phải chuẩn bị cho tình huống tồi tệ nhất : Một ngày nào đó, sự yểm trợ sẽ không còn nữa. Trước Zelensky, thì tổng thống Afghanistan, Hamid Karzai cũng từng được Quốc Hội Mỹ đón tiếp, để rồi ngày bị Mỹ bỏ rơi ngày 15/08/2021. GS Nguyễn Tiến Hưng : « Người Mỹ chóng chán (...) Chiến tranh kéo dài quá ba năm là họ không chịu nổi ». RFI : Trên tất cả các cuộc xung đột vừa nêu và cho đến cuộc chiến thương mại mà chính quyền Mỹ hiện nay đang khơi mào với gần hết thế giới, những căng thẳng hiện tại với các đồng minh thân thiết nhất của Washington như Châu Âu, Canada hay Nhật, Hàn Quốc cũng như với các quốc gia mà Mỹ đã ký Hiệp Định Đối Tác Chiến Lược như Việt Nam… Ông đánh giá thế nào về khái niệm « đồng minh » trong quan niệm của Hoa Kỳ ? GS Nguyễn Tiến Hưng : Có lẽ cái hay nhất là tôi nhắc lại câu tổng thống Thiệu khi ông ấy phản hồi về cuộc chiến. Ông nói rằng « Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ nhưng làm bạn với họ thì thật là khó » 2 . Câu hỏi đặt ra là tại sao ông ấy lại nói như vậy thì có một lần tổng thống Thiệu tâm sự với tôi « Chính sách của Hoa Kỳ thì nay thế này mai thế khác biết đâu mà mò ! » 3 . Một trong những điểm mà tổng thống Thiệu không hiểu rằng thể chế của Mỹ, cứ 4 năm có cuộc bầu cử mà mỗi một lần. Có cuộc bầu cử là có sự thay đổi sâu sắc. Thí dụ như cuộc bầu cử năm 2024 vừa rồi chúng ta thấy nó thay đổi như thế nào ! Vì thế khi bang giao với Mỹ thì phải hiểu văn hóa của Mỹ và hiểu thể chế của nước Mỹ. Về văn hóa thì người Mỹ rất chóng chán - Không cái gì trụ được quá 3 năm... một cuộc chiến kéo dài hơn ba năm thì họ không chịu được. Điển hình là cuộc chiến Việt Nam : trong giai đoạn từ năm 1965 cho đến 1968, công luận ủng hộ hết mình. Nhưng sau 3 năm thì họ chán. Cuộc chiến Ukraina cũng vậy. Đó cũng là thường tình thôi. Có chăng là Âu châu không học cái bài học cũ, và câu nói của ông Thiệu năm xưa bây giờ vẫn còn tính thời sự (…) Về khái niệm đồng minh nó không có liên tục mà thay đổi tùy từng thời gian và tùy vào quan niệm về quyền lợi của Hoa Kỳ. Thí dụ như ngày 14/04/2024 trên đài PBS tổng thống Zelensky tuyên bố với nữ ký giả Amna Nawas : « Tôi có thể nói thẳng với bà rằng nếu không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, chúng tôi sẽ không thể nào chiến thắng. Có nghĩa là chúng tôi sẽ thất bại » . Nghe câu này tôi lập tức nhớ lại lời ông Nguyễn Văn Thiệu. Tuyên bố cũng với nữ ký giả tên là Oriana Fallaci tháng 1/1973. Ông Thiệu nói : « Thưa bà, nếu Mỹ bỏ rơi thì đối với chúng tôi đó là sự kết thúc : sự kết thúc hoàn toàn, sự kết thúc tuyệt đối » . Chỉ cần thay hai cái tên Zelensky bằng Nguyễn Văn Thiệu thì toàn bộ ngữ điệu nội dung và tâm thế gần như không thay đổi. Lịch sử như đang đã lập lại, nó chỉ hơi khác là khác về nhân vật và địa danh thôi. « Word should be gotten to Nixon that if Thieu meets the same fate as Diem , the word will go out to the nations of the world that it may be dangerous to be America's enemy, but to be America's friend is fatal » (Kissinger 11/1968) RFI : Vậy phải chăng, luôn có một sự xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ít ra là từ nửa thế kỷ qua thưa giáo sư ? GS Nguyễn Tiến Hưng : Lord Palmerston (thủ tướng Anh trong giai đoạn 1859-1865) đã từng nói : Nước Anh chẳng có bạn vĩnh viễn và cũng chẳng có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi là vĩnh viễn. Vì cơ duyên lịch sử tôi đi du học ở Hoa Kỳ từ năm 1958 nên đã chứng kiến tất cả cuộc chiến tranh Việt Nam từ tổng thống Eisenhower rồi đến Kennedy, Johnson, Nixon và sau cùng là Ford. Nghiên cứu mấy chục năm nay thì thấy rõ rằng Mỹ luôn đặt quyền lợi của mình trên hết. (...) Lý do quan trọng nhất để Hoa Kỳ nhảy vào cuộc chiến Việt Nam đó chính là vì quyền lợi của Hoa Kỳ. Vì muốn giữ địa vị là siêu cường số một của thế giới cho nên phải ngăn chặn Trung Cộng với chính sách gọi là containment of red China - ngăn chặn Trung Cộng đỏ . Khi Mỹ tháo chạy thì lý do quan trọng thứ nhất cũng chỉ vì quyền lợi của Hoa Kỳ, vì Việt Nam không còn quan trọng nữa khi ông Nixon mở được cửa Bắc Kinh. Khi Nixon nối lại bang giao với Bắc Kinh, mở cửa Bắc Kinh thì tất phải đóng cửa Sài Gòn. Bắt được tay ông Mao thì phải buông tay ông Thiệu. Cũng như là sau Thế Chiến Thứ Hai, quyền lợi của Mỹ khi xây dựng NATO (Liên Minh Bắc Đại Tây Dương) là để có một thành trì vững chãi ở bên kia Đại Tây Dương, ngăn chận Liên Xô. Bây giờ Liên Xô đã chụp đổ và Chiến tranh lạnh không còn nữa thì NATO không còn quan trọng nữa. Do vậy bài học chính yếu là phải tự trông cậy vào mình chứ không thể nào trông cậy vào người ngoài mãi mãi. GS Nguyễn Tiến Hưng : « Khi Nixon mở cửa Bắc Kinh thì tất phải đóng cửa Sài Gòn. Bắt được tay ông Mao thì phải buông tay ông Thiệu » RFI : Trân trọng cảm ơn Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. ***** Trong Lời Mở Đầu cuốn « Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm » , tác giả Nguyễn Tiến Hưng nhắc lại hai sự kiện diễn ra cách nhau đúng nửa thế kỷ : « Năm 1972, tiến sĩ Kissinger, cố vấn tổng thống Nixon nên bỏ rơi Miền Nam Việt Nam và đổ cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa ‘kém cỏi’ » (tr.23). Năm mươi năm sau, tại Diễn Đàn Davos -Thụy Sĩ, cũng ông Kissinger « công khai đề nghị Ukraina phải nhường ngay một phần lãnh thổ cho Nga và chấp nhận một số điều kiện của Nga ». Đến những trang cuối cuốn sách, tác giả trích dẫn thêm quan điểm của Henry Kissinger : « Đừng làm Nga mất mặt (…) nếu không thì sẽ có thể có những xáo trộn không thể giải quyết được (…) và đừng quên Nga là một thế lực mạnh mẽ tại Âu châu » (tr. 452). -------- Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập (1986) đồng soạn thảo với nhà báo Jerrod Schecter ; Khi Đồng Minh Tháo Chạy (2005) , Tâm Tư Tổng Thống Thiệu (2010), Khi Đồng Minh Nhảy Vào (2016) . Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm , NXB Hứa Chấn Minh. Theo giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tâm sự với bà Anna Chennault, một nhân vật thân tín của tổng thống Nixon, trong một cuộc gặp tại Đài Loan sau khi ông Thiệu rời Sài Gòn năm 1975. Lời tổng thống Thiệu khi gặp lại phụ tá của ông là giáo sư Nguyễn Tiến Hưng tại Luân Đôn, Anh Quốc, năm 1976.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Phong trào chống chiến tranh Việt Nam 1965-1975 và đảng Lao động Anh 11:58
11:58
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked11:58
Dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước Việt Nam (1975-2025) là thời điểm tốt để đánh giá lại giai đoạn 1965-1975 ở Anh, khi chính phủ đảng Lao động chịu sức ép nội bộ nên đã chọn quan điểm khác dần Washington về cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam. Việc tìm hiểu thời kỳ này giúp công chúng hiểu thêm về tính đa diện và tác động đa chiều của nhiều xu thế, trào lưu chính trị-xã hội tại châu Âu một thời, khi mà cuộc chiến tại Việt Nam được nói đến liên tục trên truyền thông và có tác động đến cả một thế hệ người Anh. Thông tín viên Nguyễn Giang từ Luân Đôn, cũng là nhà nghiên cứu Đông Nam Á tại Luân Đôn, hiện làm việc ở cương vị chuyên gia khách mời (non-resident fellow) với Viện Quan hệ Quốc tế, Đại học NCCU, Đài Bắc, đã nghiên cứu chủ đề này và giới thiệu những gì công chúng chưa được biết về Phong trào chống chiến tranh Việt Nam và di sản của phong trào này đối với đảng Lao động và chính trị Anh ngày nay. RFI : Phong trào chống Chiến tranh Việt Nam ở Anh sinh ra từ đâu ? TTV Nguyễn Giang : Vâng, khác với cách hiểu thông thường còn khá phổ biến ở nhiều nơi, phong trào của thanh niên, sinh viên, trí thức ở Anh phản đối sự can dự của quân đội Hoa Kỳ tại Đông Dương có xuất phát điểm không phải từ nhận thức giai cấp và giới công nhân Anh ít có mặt trong các cuộc đấu tranh có trí thức, sinh viên đi đầu. Theo Claire Mansour, viết trong nghiên cứu mới “The British Movement against the Vietnam War” (2017), thì ngay sau khi Thế Chiến II kết thúc bằng hai trái bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản, ở Anh và các nước Tây Âu nổ ra phong trào giải trừ vũ khí hạt nhân (Nuclear disarmament movement). Trong thập niên 1950-60, phong trào này phát triển và có sự liên kết của người Anh với những người cùng chí hướng của họ ở Pháp, Tây Đức và Mỹ. Thế nhưng, bối cảnh lịch sử và nhu cầu đấu tranh ở mỗi nước có sự khác nhau. Nếu như ở Mỹ, phong trào phản chiến thường do các trí thức thiên tả lãnh đạo, có mang màu sắc chống phân biệt chủng tộc, ủng hộ quyền vươn lên của người da đen, thì ở Anh, “the British anti-Vietnam War movement” có mục tiêu đạo đức, luân lý. Luận điểm chính của các nhà vận động đòi Anh đơn phương bỏ vũ khí nguyên tử là Đế quốc Anh đã bị giải thể, nước Anh cần giành lại vị trí lãnh đạo thế giới về đạo đức trên trường quốc tế. Họ lên án chủ nghĩa đế quốc kiểu mới của Hoa Kỳ, và chia sẻ sự đồng cảm với nhân dân các nước vừa thoát ra khỏi chủ nghĩa thực dân. RFI : Người Anh, thuộc đảng Lao động hay các nhóm chính trị phe tả phái khác, đã làm gì ? TTV Nguyễn Giang : Điều họ làm là xuống đường, tuần hành để chống sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam. Ví dụ tháng 02/1965 là thời điểm bước ngoặt của phong trào tại Anh. Ủy ban Oxford vì Việt Nam (Oxford Vietnam Committee), tổ chức vẫn còn cánh thanh niên của Cuộc vận động giải trừ vũ khí nguyên tử (Campaign for Nuclear Disarmament), đã làm được cuộc tuần hành lớn đầu tiên trên cả nước, trước cuộc tuần hành đông người ở Hoa Kỳ tới vài tháng. Kể từ đó, phong trào lớn mạnh qua năm tháng về số lượng, với một trong những đợt tuần hành đông người nhất trong năm 1968, đạt con số tới 100 nghìn người ở Quảng trường Trafalgar, London. RFI: Trí thức Anh đóng vai trò như thế nào trong phong trào này ? TTV Nguyễn Giang : Nói tới phong trào chống chiến tranh Việt Nam thì phải nhắc tới triết gia Anh Bertrand Russell, người cùng vợ là Edith Russell, đã thành lập vào năm 1963 Quỹ Hòa bình mang tên Bertrand Russell Peace Foundation, để phản đối điều hai ông bà gọi là “Cuộc giết chóc của Mỹ và Anh” (Các báo Anh đã đăng hình họ mang tấm biểu ngữ to: End Anglo-American Butchery in Vietnam trong cuộc tuần hành ngày 30/06/1965 ở London). Sau này, cùng với triết gia Pháp Jean-Paul Sartre, ông Russell lập ra Ủy ban Quốc tế về Tội ác Chiến tranh của quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam, đã cử đại diện sang Hà Nội, gặp các ông Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Ủy ban này được khá nhiều trí thức, văn nghệ sĩ và chính trị gia ủng hộ, ví dụ như những vị được giải Nobel Prize gồm Max Born, Linus Pauling, Albert Schweitzer, diễn viên Anh Vanessa Redgrave, nhà quý tộc Lord Boyd Orr, Hoàng hậu Elizabeth của Bỉ, thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru, tổng thống các nước Pakistan, Ghana, Tanzania và Hoàng thân Campuchia Norodom Sihanouk. Điều đáng nói về thái độ của trí thức Anh, như ông Russell, là họ ủng hộ miền Bắc Việt Nam và chống hoạt động chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam, nhưng ông Russell không phải là người theo chủ nghĩa cộng sản, và ông vẫn viết thư đều đặn cho tổng thống Mỹ Lyndon Johnson yêu cầu, đề nghị chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và cải thiện quan hệ với Cuba. Thư của ông không được chính quyền Mỹ hồi đáp. Ông Russell không tin vào lý thuyết đấu tranh giai cấp là cách cải thiện xã hội như ý thức hệ chính thống ở các nước theo mô hình XHCN hồi đó vẫn nói, mà chỉ đơn giản muốn thúc đẩy hòa bình, đối thoại, thay cho chiến tranh, dù là chiến tranh nguyên tử hay chiến tranh bằng bom đạn. Tinh thần của ông ấy là ủng hộ Bắc Việt Nam vì miền Bắc Việt Nam khi đó bị Mỹ ném bom. Xin nhắc rằng trong suốt cuộc chiến Việt Nam, ông Russell chưa hề đến Nam hay Bắc Việt Nam, nhưng trong một bài viết thì ông từng đến thành phố Sài Gòn vào năm 1920 khi Việt Nam là thuộc địa của Pháp. Cảm giác của ông về thành phố đó, được ghi lại, nguyên văn là “một đô thị để người châu Âu giàu sang hưởng lạc một cách bệnh hoạn”. Có thể thấy ngay từ hồi trẻ, ông đã không ưa chủ nghĩa thực dân châu Âu. RFI : Còn về phong trào ở Anh phản đối Chiến tranh VN thì những diễn biến tiếp theo của nó là gì ? TTV Nguyễn Giang : Càng về sau, tính chất và khẩu hiệu đấu tranh càng thay đổi, và yếu tố nhân sự của phong trào giải trừ vũ khí nguyên tử giảm đi, nhường chỗ cho các khẩu hiệu ủng hộ VNDCCH, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Xin nhắc rằng biểu tình phản chiến ở Anh xảy đến hoàn toàn vì các lý tưởng như đoàn kết quốc tế mà thanh niên Anh theo đuổi, vì họ không phải đi lính. Trái lại, phong trào ở Mỹ có yếu tố chống quân dịch, với lý do thanh niên Mỹ phải phục vụ trong quân đội và bị đưa sang chiến trường Nam Việt Nam. Mặt khác, vì chính phủ Harold Wilson không đồng ý với yêu cầu của Hoa Kỳ đưa quân Anh tham chiến ở Nam Việt Nam, nên mục tiêu đấu tranh của phong trào phản chiến trên đường phố London, Leeds, Manchester là yêu cầu Anh gây sức ép để Mỹ chấm dứt cuộc chiến. Cũng vì thế, các đợt Không quân Hoa Kỳ oanh kích VNDCCH bị phản đối dữ dội và chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 trở thành mục tiêu phê phán Mỹ kịch liệt. Vào ngày 17 tháng 3 năm 1968, có cuộc tuần hành lớn, vài chục nghìn người ở London và theo sau bằng cuộc xuống đường đông đảo hơn, 100 nghìn người vào ngày 27 tháng 10 cùng năm. RFI : Chính phủ Anh đã ứng xử ra sao khi mà Anh có quan hệ đồng minh chặt chẽ với Hoa Kỳ ? TTV Nguyễn Giang : Theo sử gia cánh tả Keith Flett, phong trào phản chiến tại Anh đã có tác động tới quyết định của chính phủ Harold Wilson thuộc đảng Lao động, không đưa quân Anh tham chiến ở Nam VN hỗ trợ cho quân đội Mỹ theo yêu cầu của Washington năm 1964. Dư luận Anh, giới truyền thông, như BBC, đã thúc đẩy chính phủ tìm kiếm giải pháp khác cho cuộc chiến Việt Nam. Các đợt Mỹ ném bom rải thảm ở Campuchia làm dấy lên một làn sóng đấu tranh mới, nhưng cũng có lo ngại về sự vươn dậy của lực lượng Khmer Đỏ, theo các tài liệu Anh nhắc lại giai đoạn 1970-71. Ví dụ khi Hoa Kỳ ném bom miền Bắc Việt Nam vào cuối năm 1972, báo chí Anh đã chỉ trích chính phủ là quá nhượng bộ Washington, trong khi chính quyền các nước châu Âu như Bỉ, Ý, Hà Lan, Na Uy, Phần Lan lên án các đợt oanh kích. Biểu tình nổ ra ở London, Rome, Amsterdam và Copenhagen. Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme ví các trận bom của Mỹ dội xuống khu dân cư và bệnh viện (Bạch Mai) như "bom của phát-xít Đức" tàn phá các đô thị châu Âu trong Thế Chiến II. RFI : Sau cuộc chiến Việt Nam, phong trào phản chiến trong đảng Lao động Anh có còn tồn tại hay không và nếu có thì họ hoạt động ra sao ? TTV Nguyễn Giang : Câu chuyện sau ngày 30/04/1975 tưởng như đã chỉ còn là hoài niệm nhưng vẫn đóng vai trò định hình chính sách đối ngoại của đảng Lao động và phe tả Anh cho tới hôm nay. Khi còn làm việc ở London, tôi đã có dịp gặp và nghe lời kể từ nhà ngoại giao Michael Williams, cố vấn cho bộ trưởng Ngoại Giao Jack Straw của đảng Lao động, về lý do thời trẻ có khá nhiều sinh viên Anh phản đối điều họ nói là “sự can thiệp tàn khốc của quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam”. Cả hai ông Williams và Straw thời trẻ đều từng tham gia các cuộc tuần hành nổi tiếng ở London vốn bắt đầu năm 1965, mở đường cho một phong trào có chất lượng đấu tranh đô thị và các khẩu hiệu khác trước. Vào những năm 2019-20, tôi cũng có dịp phỏng vấn ông Jack Straw, khi đó đã rời vị trí bộ trưởng, trong sự kiện ông bảo trợ trong Quốc hội Anh nhằm ủng hộ cuộc đấu tranh đòi bồi thường cho nạn nhân chất da cam ở Việt Nam. Vể sau này thì có 3-4 cuộc chiến đã khiến di sản chống chiến tranh Việt Nam lên tiếng ở Anh. Đó là năm 1982 khi nữ thủ tướng thuộc đảng Bảo thủ Anh, Margaret Thatcher, quyết định đưa quân sang quần đảo Falklands (Malvinas) đẩy quân Argentina ra khỏi đó. Lãnh đạo đảng Lao động đối lập, Michael Foot, đã ủng hộ hành động của bà Thatcher, dù bị nhiều nhân vật trong đảng Lao động phản đối. Vào các năm 1997 và 2010, Anh lại đưa quân ra nước ngoài, sang Iraq, Afghanistan và Libya. Các nhân vật phản chiến hàng đầu của đảng này như Tony Benn và Jeremy Corbyn đã phản đối chính phủ của Tony Blair cùng đảng đưa quân giúp Mỹ. Ông Corbyn sau trở thành lãnh tụ đảng Lao động và kiên trì chống cuộc chiến mới nhất của Israel ở Gaza. RFI : Với tình hình hiện nay thì sao ? TTV Nguyễn Giang : Xin nhắc là đương kim thủ tướng Anh, luật sư nhân quyền Keir Starmer, đã xuống đường cùng ‘Liên minh ngăn chiến tranh’ (Stop the War Coalition) với chừng 1 triệu người khi nổ ra cuộc chiến Iraq năm 2003. Đó là hình ảnh gợi lại các cuộc tuần hành ở London phản đối chiến tranh Việt Nam. Nhưng gần đây nhất, khi lên cầm quyền, ông Starmer lại đưa đảng Lao động vào một con đường hỗ trợ Ukraina tới cùng, kể cả khi Mỹ và Nga đang đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Tất nhiên bối cảnh của cuộc chiến Ukraina rất khác chiến tranh Iraq và hiện nay, các đảng tả và hữu hay trung dung như Tự do Dân chủ (LibDem) đều ủng hộ Ukraina chống lại Nga. Nhưng như sử gia Keith Flett đánh giá thì ở Anh luôn có hai xu thế: chiến tranh đế quốc và phong trào phản chiến. Đảng Lao động luôn là nơi có những người theo phái hòa bình (pacifists) và phản chiến nói chung và đó đã là truyền thống của họ, kể cả khi có những lãnh đạo như ông Tony Blair hay Keir Starmer, được bầu lên lãnh đạo quốc gia và chọn con đường khác.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Đức Giáo hoàng Phanxicô, người đem lại làn gió mới từ tân thế giới 9:39
9:39
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked9:39
Chiều tối ngày 13/03/2013, trong làn mưa nhẹ và không khí se lạnh của mùa đông Roma, đoàn người đông đảo trên quảng trường Thánh Phê-rô vỗ tay vui mừng khi thấy làn khói trắng tỏa ra từ ống khói của nhà nguyện Sistine. “Habemus papam” lời thông báo chính thức của vị hồng y tổng phó tế và vị hồng y niên trưởng đã giới thiệu với toàn thế giới vị giáo hoàng mới trên ban công của Đền Thánh Phê-rô. Đức hồng y Jorge Mario Bergoglio, tổng giám mục thủ đô Buenos Aires, Achentina, sẽ là tân giáo hoàng Phanxicô kế nhiệm đức Bênêđíctô XVI, người đã từ nhiệm một tháng trước. Vị giáo hoàng đầu tiên đến từ châu Mỹ đã thực sự đem lại làn gió mới cho giáo hội công giáo. Người đến từ Tân Thế Giới Jorge Mario Bergoglio sinh ra tại thủ đô Argentina vào ngày 17 tháng 12 năm 1936, trong một gia đình di dân gốc Piemonte. Cha ngài là một nhân viên đường sắt và mẹ làm nội trợ. Ngài có 5 anh chị em. Sau khi tốt nghiệp kỹ thuật viên hoá học, ngài gia nhập Dòng Tên ngày 11 tháng 3 năm 1958. Ngài đã hoàn thành chương trình văn chương ở Chile và lấy bằng thạc sĩ triết học ở Achentina. Sau hai năm làm giáo sư văn chương và tâm lý học ở Buenos Aires, ngài tiếp tục học và lấy bằng thạc sĩ thần học năm 1970. Ngài được thụ phong linh mục vào ngày 13 tháng 12 năm 1969. Đức Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm ngài làm Tổng giám mục giáo phận Buenos Aires vào ngày 28 tháng 2 năm 1998. Và Đức Gioan Phaolô II đã tấn phong ngài làm hồng y ba năm sau. Với tư cách là Tổng giám mục của Buenos Aires - một giáo phận có hơn ba triệu dân - ngài đã tạo nêm cộng đồng cởi mở và huynh đệ; sự tham gia tích cực và có ý thức của người giáo dân; truyền giáo tới toàn thể cư dân thành phố; hỗ trợ người nghèo và người bệnh. Ngài là khuôn mặt uy tín của giáo hội ở Mỹ La tinh trước khi được bầu làm giáo hoàng thứ 266. Với nửa lá phổi Năm 1957, khi là chủng sinh, ngài ngã bệnh và đã bị cắt bỏ thùy trên phổi phải. Sau khi lành bệnh, ngài đã gia nhập Dòng Tên vì bị thu hút bởi ơn gọi truyền giáo và kỷ luật của Dòng Tên trong thời gian dưỡng bệnh. Khi bắt đầu làm giáo hoàng, ngài đã ví giáo hội như một bệnh viện dã chiến nơi chiến trường với biết bao nhiêu là vấn đề nảy sinh. Và những người mục tử của giáo hội phải mang lấy mùi chiên của những con chiên trong đàn chiên mà người ấy đang chăm sóc. Đó là phong cách của papa callejero , giáo hoàng của đường phố, như ngài vẫn giữ khi còn ở Buenos Aires. Đi đến vùng ngoại biên (phéripherie) Trong ngôn ngữ ngày nay, vùng ngoại biên (phéripherie) gợi lên những nơi bị quên lãng bởi chính quyền, nơi của sự nghèo đói và tệ nạn, nơi chất chứa những mối nguy hiểm. Đó không chỉ là sự tận cùng của một vùng địa lý mà còn là nơi không được chú ý. Nhưng đây lại là nơi chú ý và khuyến khích của Đức Phanxicô. Những chuyến viếng thăm mục vụ của ngài đã đưa ngài đến những vùng đất “xa xôi”, nơi mà số lượng tín hữu ki-tô chỉ là thiểu số, như Mông Cổ, Indonesia, Papua Tân Guine, hay các nước Ả Rập vùng Vịnh. Đó chính là những nơi ngài gặp gỡ với các tôn giáo khác trong sự đối thọai trong tình huynh đệ. Đối thoại với sự thuần khiết và khẩn cấp của một không gian sống chung của cả nhân loại cần phải gìn giữ và bảo vệ. Đó chính là những gì ngài đã viết trong hai thông điệp Fratelli tutti và Laudato sì. Vùng ngoại biên đó còn là lằn ranh giới giữa con người và máy móc (AI). Đứng trước sự phát triển mau chóng của công nghệ mới, của sự thay thế con người bằng trí thông minh nhân tạo khiến thế giới đánh mất phương hướng, thì Giáo hội phải là người bạn đồng hành của tất cả những người thiện chí đang tìm kiếm ý nghĩa trong thế giới phức tạp hiện đại của chúng ta. Cải cách sâu rộng giáo triều (curia) Cải tổ giáo triều (curia romana) là yêu cầu cấp thiết của công nghị hồng y trong cuộc bầu giáo hoàng. Đó là việc tiếp tục những gì mà dưới thời đức Bênêđictô đang thực hiện. Và Đức Phanxicô xem đó như là một trong những nhiệm vụ chính trong nhiệm kỳ của ngài. Tông hiến Praedicate evangelium (19/03/2022) là kết quả của một quá trình dài và một trong những mục tiêu chính của triều đại Giáo hoàng của Đức Phanxicô là cải cách Giáo triều Rôma. “ Những thay đổi về cấu trúc, những điều mới được quyết định bởi bối cảnh hiện tại, những quy trình đã được tiến hành trong nhiều năm và cuối cùng đã hoàn thành ”, Đức Hồng Y Pietro Parolin đã nói về Tông hiến cải tổ Giáo triều Rôma. Đức Hồng Y cho biết, “ Praedicate evangelium ra đời từ những đúc kết kinh nghiệm và điều chỉnh trong những năm qua, thực hiện những bước đi mới, để “ hoàn thiện bức tranh tổng thể ,” theo ba tiêu chí: “ sự hiệp thông của các thể chế Giáo hội, sự hợp tác trong các tương quan giữa các văn phòng, và việc điều chỉnh thái độ của mỗi cá nhân .” Mặt khác, các Hội đồng Kinh tế, Ban Thư ký Kinh tế, Văn phòng Kiểm toán. Các cơ quan này hiện “ đang phục vụ cho sứ mạng ”; thật vậy, chúng không phải là “ nhiệm vụ cốt lõi ” của Giáo triều Roma, nhưng “nhằm giúp đỡ để phục vụ sứ mạng vốn đã được thực hiện bởi nhiều bộ và ban, trong đó “ điểm tham chiếu không thay đổi ” chính là dựa vào Học thuyết Xã hội của Giáo Hội và “ bổn phận rao giảng Tin Mừng .” Vai trò của phụ nữ và giáo dân Trong triều đại của Đức giáo hoàng Phanxicô, phụ nữ và người giáo dân được tham gia nhiều hơn vào việc quản trị của giáo triều. Họ không những được chỉ định giữ các chức vụ lãnh đạo ở cấp bộ mà còn trực tiếp tham gia trong việc đưa ra các quyết định của Giáo hội. Ngày 06/01/2025, nữ tu Simona Brambilla 60 tuổi được bổ nhiệm làm Tổng trưởng của Bộ các Tu hội Đời sống Thánh hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ. Nữ tu Raffaella Petrini sẽ làm Chủ tịch Phủ Thống đốc Vatican từ 1/3/2025. Hay trước đó, Ông Paolo Ruffini làm Tổng trưởng Bộ Truyền thông. Đó là những ví dụ minh hoạ cho sự thay đổi trong giáo triều Roma. Những người giáo dân nam nữ và nữ tu không chỉ phục vụ với vai trò giúp việc cho các giáo sĩ nhưng nay họ tham gia một cách trực tiếp và chủ động trong các nhiệm vụ trong giáo hội. Minh hoạ rõ nhất đó là thượng hội đồng về “Hiệp hành” kéo dài từ năm 2021 và kết thúc vào tháng 10/2024. Mà các ý kiến được thu thập từ mọi thành phần trong giáo hội. Và hai cuộc họp toàn thể vào tháng 10/2023 và 10/2024 chứng minh sự đồng hành của mọi thành phần trong giáo hội, khi các thành viên tham dự được chia đều thành từng bàn chứ không xếp theo phẩm trật như vốn thường xảy ra trong các thượng hội đồng trước. Có thể đây là bước tiếp theo để tiếp tục nghiên cứu và suy tư về việc truyền chức cho phụ nữ và những người đã có gia đình. Trước những bê bối trong Giáo hội Nhưng những vụ việc ấu dâm và lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ bị phanh phui ở khắp nơi trở thành một vết nhơ trong Giáo hội Công giáo. Đức Phanxicô đã có biện pháp triệt để bằng Tông thư dưới dạng tự sắc Vos estis lux mundi - Các con là ánh sáng thế gian công bố 9/5/2019. Và phiên bản cập nhật của Tông thư này được ban hành ngày 25/3/2023 và có hiệu lực từ ngày 30/4/2023. Cũng như, sửa đổi cuốn VI của Bộ Giáo Luật. Theo đó, định nghĩa lại khái niệm tội phạm và những vấn đề liên quan. Mà bất cứ một giáo sĩ nào vi phạm việc này lập tức đã là tội phạm chứ không cần đến quá trình xét xử. Cũng như, những nạn nhân không chỉ là những trẻ em hay trẻ vị thành niên mà bất cứ những ai dễ bị tổn thương, chẳng hạn như người khuyết tật. Bản văn cũng xác định vai trò và trách nhiệm của những người có trách nhiệm trong việc giải quyết những vụ việc này. Và cũng xác định việc hợp tác với chính quyền dân sự trong những vụ việc này. Vấn đề giáo lý Tháng 12/2023, Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, giới thiệu Tuyên bố Fiducia supplicans về ý nghĩa của các sự chúc lành. Điều này đã gây ra phản ứng dữ dội từ hàng giám mục của các nước Châu Phi, Hoa Kỳ và các thành phần bảo thủ trong Giáo hội. Vì tuyên bố này gây hiểu lầm nghiêm trọng trong việc chúc lành cho các cặp đôi đồng tính, một cách nào đó là Giáo hội công nhận những cặp đôi này. Và Đức Phanxicô đã phải lên tiếng giải trình trong buổi tiếp các thành viên của bộ giáo lý đức tin ngày 26/1/2024. Trong đó, ngài nhấn mạnh việc giáo hội luôn đồng hành với hết mọi người không loại trừ bất cứ ai và việc chúc lành không phải là bí tích nhưng kéo người ta lại gần với Chúa hơn. Vấn đề hôn nhân đồng tính và ly dị tái hôn trong giáo hội vẫn còn là vấn đề lớn. Tuy tại một số quốc gia điều này đã trở nên bình thường và được luật hoá. Là một người của mục vụ, Đức Phanxicô đã đối diện với vấn đề này bằng Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Amoris laetitia - Niềm vui Yêu thương . Trình bày những giải pháp trước những thách đố của các vấn đề hôn nhân bằng tình yêu thương trong sự phân định của Thánh Thần nơi gia đình hơn là luật pháp với những phép tính toán học. Kết Đức giáo hoàng Phanxicô bắt đầu triều đại của ngài khi tuổi đã cao giống như đức Gioan XXIII. Một vị giáo hoàng “chuyển tiếp” Gioan XXIII đã đem lại bầu khí mới aggiornamento của Công đồng Vatican II cho Giáo hội. Có lẽ Đức Phanxicô với nửa lá phổi của mình đã thổi vào Giáo hội một bầu khí trong lành – Buenos Aires để Giáo hội đi cùng và đi với thế giới của những con người của ngày hôm nay.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Mỹ - Âu họp tại Paris: Nỗ lực vì hòa bình cho Ukraina có bước tiến lớn hay chỉ là ảo ảnh ? 9:54
9:54
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked9:54
Lần đầu tiên kể từ khi Donald Trump lên cầm quyền, ba bên Mỹ, Ukraina và các nước châu Âu họp lại để tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh tại Ukraina. Cuộc gặp mở ra cơ hội đạt giải pháp hòa bình, nhưng khác biệt giữa lập trường hai bên tham chiến, Nga và Ukraina, còn rất lớn. Nỗ lực vì hòa bình cho Ukraina có một bước tiến lớn hay chỉ là ảo ảnh ? Theo đặc sứ Mỹ Steve Witkoff, sau cuộc gặp tổng thống Nga Vladimir Putin, « 5 vùng lãnh thổ » của Ukraina mà Matxcơva đang kiểm soát sẽ phải là một nội dung chủ yếu trong thỏa thuận chấm dứt xung đột tại Ukraina. Nhân nhượng lãnh thổ là điều mà cho đến nay chính quyền Kiev không chấp nhận. Cuộc họp lần thứ 17 của nhóm Ramstein, gồm 50 nước hỗ trợ quân sự Ukraina, cam kết huy động 21 tỉ euro để tăng cường sức mạnh quân sự của Ukraina nói chung, và để hỗ trợ quốc gia này trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nga nói riêng. Ủy Ban Châu Âu khuyến cáo các quốc gia thành viên và các nước ứng cử vào Liên Âu không tham gia Ngày kỉ niệm chiến thắng phát xít 09/05 tại Matxcơva. Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua một nghị quyết về quan hệ giữa Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Toàn Châu Âu (Council of Europe / Conseil de l’Europe), lên án cuộc xâm lược của Nga chống Ukraina. Việt Nam bỏ phiếu thuận. Trên đây là các chủ đề chính của Tạp chí Thế giới Đó đây tuần này. Mỹ - Âu – Ukraina lần đầu tiên họp : Mỹ vừa tung ra « thỏa thuận khung », vừa đe đổ vỡ Ngay từ khi lên cầm quyền, tổng thống Mỹ Donald Trump khẳng định chủ trương thúc đẩy đối thoại trực tiếp giữa Washington và Matxcơva, để một mặt nhanh chóng bình thường hóa quan hệ song phương, và mặt khác, tìm giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh Nga – Ukraina. Trong suốt thời gian vừa qua, châu Âu bị gạt ra một bên. Hôm 17/04, lần đầu tiên các giới chức cao cấp Mỹ, gồm ngoại trưởng Marco Rubio và đặc sứ của tổng thống Steve Witkoff, có cuộc họp với các lãnh đạo Pháp, Anh, Đức cùng Ukraina tại Paris. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron hoan nghênh một cuộc thảo luận « tích cực và mang tính xây dựng », với sự tham gia của châu Âu, và vấn đề bảo đảm an ninh cho Ukraina đã được phía Mỹ đề cập tới, theo phủ tổng thống Pháp . Một cuộc thảo luận với cùng thành phần tham dự dự kiến sẽ diễn ra tại Luân Đôn tuần tới. Đọc thêm : Ngày càng mất kiên nhẫn, tổng thống Mỹ Donald Trump dọa sẽ bỏ mặc hòa đàm Nga-Ukraina Về phía Mỹ, trả lời báo giới tại sân bay Bourget, ngoại ô Paris, trước khi lên đường về nước, ngoại trưởng Rubio một mặt cho biết một thỏa thuận khung về hòa bình đã được « đón nhận tích cực » tại Paris trong cuộc họp vừa qua, nhưng mặt khác cũng cảnh báo là nếu đàm phán dậm chân tại chỗ, Mỹ sớm ra quyết định rút khỏi hòa đàm để tập trung cho « nhiều ưu tiên quan trọng hơn ». Ngay sau cuộc họp tại Paris, ngoại trưởng Rubio điện đàm với người đồng cấp Nga Serguei Lavrov để « truyền đạt cùng một thông điệp mà phía Mỹ đã chuyển đến phái đoàn Ukrain a và các đồng minh châu Âu tại Paris », theo bộ Ngoại Giao Mỹ. Chiến thuật câu giờ và đổ lỗi của Nga: Putin tránh để Trump mất mặt Sau cuộc điện đàm Rubio – Lavrov , Matxcơva lập tức phản hồi. Báo cáo của bộ Ngoại Giao Nga về cuộc điện đàm nhấn mạnh đến thiện chí của Nga, cùng với Mỹ, tìm giải pháp hòa bình. Matxcơva tìm cách kéo dài thời gian đàm phán, và đổ lỗi thất bại cho Ukraina và châu Âu trong trường hợp đàm phán bế tắc. Thông tín viên Anissa el-Jabri từ Matxcơva giải thích : « B áo cáo của b ộ Ngoại G iao Nga tối qua về cuộc điện đàm giữa hai người đứng đầu ngành ngoại giao Nga, Mỹ , Sergei Lavrov và Marco Rubio, liên quan đến cuộc họp tại Paris , nêu rõ : ‘‘Các tiếp xúc này diễn ra trong khuôn khổ các tham vấn giữa Washington và Matxcơva , bao gồm cả cuộc gặp gần đây giữa t ổng thống Nga Vladimir Putin và đặc sứ Mỹ Steve Whitkoff." Cuộc gặp trực tiếp giữa tổng thống Nga và đặc sứ Mỹ vẫn luôn là điều có lợi cho đ iện Kremlin. Chính vì vậy, p hát ngôn viên điện Kremlin Dimitri Peskov đã phản ứng thận trọng trước các bình luận của ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio : ‘‘Vấn đề này cần phải được hỏi lại với Washington. Chúng tôi tin rằng đã có thể thấy một số tiến bộ . Tiến bộ này có liên quan đến lệnh ngừng bắn đối với các cơ sở hạ tầng năng lượng của đôi bên mà Nga đã tuân thủ. Liên bang Nga đã tham gia vào lệnh ngừng bắn này , còn phía Ukrain a thì không. Đã c ó một số tiến triển, nhưng vẫn còn nhiều cuộc thảo luận khó khăn phía trước. ’’ M a txcơva đang kéo dài thời gian trong các đàm phán từ lâu nay với kịch bản: làm nản lòng người Mỹ , khiến Washington rút khỏi các đàm phán , và hệ quả tiếp theo là giảm hỗ trợ quân sự của Mỹ cho Ukrain a . Với Matxcơva, đ iều này sẽ mở ra những cơ hội mới cho Nga trên chiến trường . N hưng để làm được điều đó , Nga phải thận trọng để không bao giờ được làm Donald Trump tức g iận , và cũng làm sao để đổ toàn bộ trách nhiệm của t hất bại cho Ukrain a, và cho châu Âu , đặc biệt là Pháp. » Đọc thêm : Triển vọng đàm phán Nga - Mỹ về Ukraina: Chiến lược đòi hỏi tối đa của Putin Ép nhượng « 5 vùng lãnh thổ »: Kiev lên án đặc sứ Mỹ là quân bài của Nga Chính quyền Trump tỏ ra là bên sốt sắng vì hòa bình cho Ukraina. Tuy nhiên, nhìn từ Kiev, đặc sứ của tổng thống Mỹ Steve Witkoff tỏ rõ lập trường thiên vị Matxcơva. Ngay trước cuộc họp đầu tiên giữa Mỹ, châu Âu và Ukraina tại Paris hôm 17/04, từ Kiev, tổng thống Volodymyr Zelensky đã cáo buộc đặc sứ của tổng thống Donald Trump về chiến tranh Ukraina, Steve Witkoff, đang « làm theo chiến lược của Nga » . Trở về sau cuộc gặp Putin tại Saint Petersbourg, đặc sứ Steve Witkoff, trong cuộc trả lời đài Mỹ Fox News hôm 14/04 , cho biết : « Đây là cuộc họp thứ ba của tôi với ông ấy. Cuộc họp kéo dài gần 5 giờ. Tham dự cuộc họp, có hai cố vấn quan trọng, là Ushakov, cố vấn ngoại giao của tổng thống Nga, và Kirill Dmitriyev, đặc phái viên kinh tế của ông Putin. Đó là một cuộc họp nhiều ý nghĩa : Cuối cùng chúng tôi đã thực sự hiểu yêu cầu của Putin, là có được hòa bình lâu dài ở đây, vượt ra ngoài lệnh ngừng bắn. Chúng tôi đã có câu trả lời cho điều đó. Ý tôi là thỏa thuận hòa bình này liên quan đến cái gọi là « 5 vùng lãnh thổ » của Ukraina, hiện Nga đang kiểm soát, nhưng ngoài ra, còn nhiều điều khác. Có các thể thức bảo đảm an ninh, có điều 5 của NATO. Ý tôi là có rất nhiều chi tiết kèm theo. Đây là một tình huống phức tạp do một số vấn đề thực sự giữa hai nước, nhưng tôi nghĩ chúng ta có thể đang ở trước ngưỡng cửa của thay đổi lớn. Thay đổi này sẽ rất, rất quan trọng đối với thế giới nói chung. Trên hết, tôi tin rằng quan hệ Nga – Mỹ có khả năng tái lập thông qua một số cơ hội thương mại rất hấp dẫn mà tôi nghĩ cũng mang lại sự ổn định thực sự cho khu vực. Quan hệ đối tác tạo ra sự ổn định. » Châu Âu: Vừa tăng hỗ trợ quân sự Ukraina, vừa cố giữ chân Mỹ Kể từ khi ông Trump lên cầm quyền, các nước châu Âu không đặt nhiều hy vọng vào nước Mỹ. Nỗ lực vượt bậc để huy động các hỗ trợ quân sự cho Ukraina là mục tiêu hàng đầu của châu Âu hiện nay. Ngày 11/04 vừa qua, nhóm Ramstein, gồm 50 nước hỗ trợ quân sự cho Ukraina họp tại Bruxelles , thông báo cam kết mới, đóng góp 21 tỉ euro vì Ukraina. Đứng đầu là Đức với 11 tỉ, Anh hơn 5 tỉ euro. Đọc thêm : Châu Âu cố khẳng định vai trò đối trọng với Nga-Mỹ giải quyết cuộc chiến ở Ukraina Tăng cường nội lực của châu Âu, nhưng các nước châu Âu đồng thời cố gắng duy trì quan hệ với Washington. Bộ trưởng Quốc Phòng Đức Boris Pistorius, đồng chủ trì hội nghị cùng người đồng cấp Anh, tại trụ sở Liên Minh Bắc Đại Tây Dương NATO ở Bruxelles, đã hoan nghênh việc người đồng cấp Mỹ tham gia hội nghị qua hình thức trực tuyến, trong bối cảnh có nhiều đồn đoán về khả năng ông Pete Hegseth vắng mặt trong cuộc họp đặc biệt quan trọng với Ukraina này : « Tôi rất vui khi nói rằng chúng ta có bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Hegseth giúp bảo vệ chủ quyền của các bạn, người dân của các bạn và để răn đe. Công việc của chúng tôi, với tư cách bộ trưởng quốc phòng, là phải hành động khẩn trương, càng sớm càng tốt. Các viện trợ quân sự hiện nay sẽ giúp các bạn bảo đảm hòa bình. Nhìn lại hồi tháng 2, đây là một thời điểm để các ngành công nghiệp quốc phòng của chúng ta nỗ lực vượt bậc, và thực tế họ đang hành động như vậy. Chúng tôi đang và sẽ tiếp tục sát cánh cùng các bạn trong cuộc chiến này. Với các viện trợ cho Ukraina, các lực lượng vũ trang Ukraina sẽ là lực lượng răn đe mạnh nhất để bảo vệ đất nước. Hôm nay, chúng tôi sẽ cam kết đóng góp thêm hàng tỷ euro . » Đọc thêm : Không có Hoa Kỳ liệu châu Âu có thể đối đầu quân sự với Nga ? Xác xuất 70% « có hòa bình » cho Ukraina theo Goldman Sachs: Hòa bình theo kịch bản Putin ? Ít ngày trước cuộc họp đầu tiên ba bên Mỹ, Ukraina và châu Âu, theo Reuters, hôm 07/04, Ngân hàng Hoa Kỳ Goldman Sachs, một biểu tượng của thị trường tài chính Wall Street, dựa trên việc phân tích giá cả trái phiếu, suy ra là trong hiện tại, thị trường tin xác suất 70% đạt được « thỏa thuận hòa bình » cho Ukraina, theo thông báo của Goldman Sachs gửi khách hàng. Tỉ lệ tăng mạnh so với trước khi Trump đắc cử (chưa đến 50%), tuy có thấp hơn chút ít so với tháng 2/2025 (với 76%). Hành xử của chính quyền Donald Trump trong việc tìm giải pháp chấm dứt xung đột Nga – Ukraina tuy nhiên đang nhận được những đánh giá rất khác biệt, thậm chí trái ngược. Trong lúc một số người coi nghệ thuật đàm phán của một doanh nhân của tổng thống Trump, có khả năng giúp các bên có lợi ích khác biệt, đối kháng, có thể đi đến một thỏa hiệp, thì tại châu Âu và Ukraina, rất nhiều người hoài nghi về thiện chí và khả năng thực sự của tổng thống Mỹ trong việc thúc đẩy một thỏa thuận hòa bình với Putin. Đọc thêm - Ukraina – Nga: Chiến tranh tiếp tục, ‘‘xung đột đóng băng’’ hay đàm phán hòa bình ? Theo nhiều nhà quan sát, tổng thống Nga đã không hề nhân nhượng Trump điều gì căn bản : Putin dường như không từ bỏ các tham vọng tối đa, trong đó có việc tước đi cả quyền của Ukraina xây dựng một quân đội hùng mạnh để đủ sức tự vệ. Ukraina khó lòng chấp nhận một « nền hòa bình » với dao kề cổ. Nền « hòa bình » cho Ukraina theo Goldman Sachs cụ thể sẽ ra sao? Hòa bình theo kịch bản của Putin hay Trump buộc phải bó tay chấp nhận thất bại trong những ngày tới ? Liệu có cơ hội cho một nền hòa bình khác ? Thành viên và ứng viên vào EU không dự lễ mừng thắng phát xít do Nga tổ chức: Bruxelles khuyến cáo Trong tuần qua, một diễn biến đáng chú ý khác là việc Liên Hiệp Châu Âu quyết định tẩy chay lễ kỉ niệm mừng chiến thắng phát xít Đức, mà Nga dự kiến tổ chức lớn tại Matxcơva ngày 09/05 tới, với lãnh đạo hơn 20 nước tham dự. Ủy Ban Châu Âu khuyến cáo các nước thành viên và các ứng cử viên vào Liên Âu không tham dự. Theo ngoại trưởng Latvia Baiba Braže, được trang web Pravda Europe của Ukraina trích dẫn, cảnh báo được đưa ra trong một bữa tối làm việc với đại diện các nước vùng Tây Balkan, với giải thích « v ì điều này không phù hợp với các giá trị của Liên Âu ». Lãnh đạo ngoại giao Liên Âu Kaja Kallas cảnh báo : Liên Âu sẽ « không coi nhẹ » hành động tham dự lễ kỷ niệm ở Matxcơva. Mặc dù không có lệnh trừng phạt nào được công bố rõ đối với những người không tôn trọng khuyến cáo này, nhưng thông điệp đưa ra rất rõ: việc tham dự cuộc diễu hành có thể được coi là « khoảnh khắc làm rõ thái độ chính trị ». Theo ông Jonathan Vseviov, quan chức cao cấp bộ Ngoại Giao Estonia, được Financial Times trích dẫn, « chúng tôi đang chờ xem ai ủng hộ, ai chống lại chúng tôi ». Tuy nhiên, quốc gia Tây Balkan Serbia thông báo sẽ cử đại diện tham gia. Tổng thống Serbia Aleksandar Vucic đã xác nhận cá nhân ông sẽ có mặt tại buổi lễ, và thậm chí đã quyết định cử một đơn vị quân đội tham gia duyệt binh, theo điện Kremlin. Trong số các nước Liên Âu, chỉ có Slovakia tham dự (trái ngược với hầu hết các lãnh đạo châu Âu, thủ tướng Slovakia Robert Fico chưa hề đến Kiev kể từ đầu cuộc xâm lăng của Nga). Cảnh báo của lãnh đạo ngoại giao Liên Âu không thuyết phục được Armenia, quốc gia đang ứng cử vào Liên Hiệp Châu Âu. Thủ tướng Nikol Pachinian nhấn mạnh : việc tham gia kỉ niệm lễ chiến thắng phát xít ở Matxcơva không hề mâu thuẫn với lý tưởng hướng về Liên Âu của Armenia. Armenia, vốn có quan hệ phụ thuộc mật thiết vào Nga, bỏ phiếu trắng trong hầu hết của nghị quyết của Liên Hiệp Quốc lên án Nga xâm lược, trừ nghị quyết trong tuần qua (xem phần dưới). Cùng ngày 09/05, Bruxelles cùng chính quyền Ukraina tổ chức trọng thể Ngày sinh nhật của Cộng đồng châu Âu tại thủ đô Kiev. Ngày Châu Âu (Journée de l’Europe / Europe Day) vì Hòa bình và đoàn kết được tổ chức hàng năm để kỷ niệm Tuyên bố Schuman, tên của ngoại trưởng Pháp Robert Schuman (dẫn đến sự ra đời của Cộng đồng Than Thép châu Âu, gồm 6 nước Pháp, Tây Đức, Ý, Bỉ, Hà Lan Luxembourg), thường được coi là thời điểm khai sinh ra Liên Hiệp Châu Âu sau này. Nghị quyết lên án Nga xâm lược: Việt Nam và các nước ASEAN bỏ phiếu thuận Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 16/04 vừa qua bỏ phiếu thông qua một nghị quyết về « Hợp tác giữa Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Toàn châu Âu » (mang tên A/79/L.75), có nội dung lên án Nga xâm lược Ukraina. Nghị quyết được 105 phiếu thuận. Mỹ bỏ phiếu chống cùng Nga và 7 nước khác trong đó có Bắc Triều Tiên và Belarus. Điểm đặc biệt đáng chú ý là Việt Nam và toàn bộ các nước ASEAN bỏ phiếu thuận. Trung Quốc bỏ phiếu trắng. Việc Việt Nam và toàn bộ các nước ASEAN lần đầu tiên bỏ phiếu thuận về nội dung lên án Nga xâm lược là một sự kiện đặc biệt đáng chú ý trong bối cảnh số lượng nước ủng hộ nghị quyết lên án Nga xâm lược có xu hướng sụt giảm mạnh kể từ khi Trump trở lại nắm quyền (nghị quyết lên án Nga xâm lược hồi tháng 2/2025 chỉ được 93 nước thông qua, so với hơn 140 phiếu trong các nghị quyết trước). Hội đồng Toàn châu Âu, thành lập năm 1949, bao gồm 46 quốc gia thành viên (không kể Nga, bị khai trừ từ khi xâm lược Ukraina), gồm 27 thành viên Liên Âu, và nhiều quốc gia ngoài châu Âu, có tổng dân số khoảng 700 triệu. Đây là lần thứ hai nghị quyết về hợp tác giữa Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Toàn châu Âu được thông qua kể từ khi Nga xâm lược Ukraina. Trong cuộc bỏ phiếu lần trước, đầu năm 2023, chỉ có hai nước ASEAN ủng hộ nội dung lên án Nga xâm lược (Singapore và Philippines). « Cơ chế đa phương quốc tế », linh hồn của Liên Hiệp Quốc : Ai bảo vệ, ai ngăn cản ? Trong nghị quyết nói trên, Đại Hội Đồng ghi nhận « những thách thức chưa từng có mà châu Âu đang phải đối mặt do cuộc xâm lược của Liên bang Nga chống Ukrain a , và trước đó là chống G ruzia, việc Liên bang Nga không còn là thành viên của Hội đồng Toàn châu Âu đòi hỏi Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Toàn châu Âu phải tăng cường hợp tác , đặc biệt là nhằm khôi phục nhanh chóng hòa bình , và duy trì hòa bình và an ninh dựa trên sự tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập của mọi quốc gia … ». Đại Hội Đồng cũng lưu ý « Hội đồng Toàn châu Âu đang đóng góp vào công việc của một nhóm chuyên trách có trách nhiệm thành lập một T òa án đặc biệt xét xử tội ác xâm lược chống lại Ukrain a và sẵn sàng xem xét khả năng cung cấp chuyên môn và hỗ trợ kỹ thuật giúp cho việc thành lập và … hoạt động của T òa án đặc biệt này ». Hội đồng Toàn Châu Âu cho phép « tăng cường cơ chế đa phương quốc tế, thúc đẩy bảo vệ quyền con người và các quyền tự do căn bản », « chế độ dân chủ và Nhà nước pháp quyền », đóng góp nhiều cho « việc duy trì một châu Âu ổn định và hòa bình », theo Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Đọc thêm - Nửa thế kỷ ''Hiệp định Helsinki'': Chiến tranh Ukraina xóa sổ "Kiến trúc an ninh châu Âu" Trong bối cảnh các chế độ độc đoán trỗi dậy khắp nơi, Hội đồng Toàn châu Âu và Liên Hiệp Châu Âu nổi lên như ốc đảo của hòa bình và hợp tác. Trong bối cảnh cơ chế « đa phương quốc tế », vốn được coi là « linh hồn » của Liên Hiệp Quốc (« Beating Heart », chữ dùng của tổng thư ký LHQ Antonio Guterres) nền tảng của hợp tác toàn cầu và « hệ thống an ninh thế giới », đang bị đe dọa nghiêm trọng, việc ủng hộ hợp tác giữa Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Toàn Châu Âu có thể coi là chất thử cho thiện chí của các nước. Việc toàn thể khối ASEAN ủng hộ nghị quyết nói trên của Liên Hiệp Quốc trong lúc Trung Quốc – quốc gia vừa lớn tiếng khẳng định là trụ cột của hệ thống quốc tế, với Liên Hiệp Quốc là nòng cốt - bỏ phiếu trắng nói lên điều gì ?…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Tái triển khai lực lượng quân sự tại kênh đào Panama: Mặt trận mới của Mỹ chống Trung Quốc 10:34
10:34
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked10:34
Tập trung vào cuộc chiến thuế quan, liên tục tăng thuế nhắm vào hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, chính quyền Mỹ của tổng thống Donald Trump vẫn không quên gây áp lực đối với chính quyền nước Panama, đòi thâu tóm kênh đào Panama mà Mỹ đã xây năm 1914 và chuyển giao cho Panama quyền quản lý từ năm 1999. Lý do chính quyền Mỹ đưa ra là kênh đào Panama đang đứng trước mối nguy bị Trung Quốc kiểm soát. Không phải vô cớ mà chỉ khoảng 2 tháng sau khi ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio công du Panama, tuần qua đến lượt bộ trưởng Quốc Phòng Pete Hegseth sang thăm quốc gia nơi có kênh đào Panama nối từ Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương. Theo AFP, Mỹ và Trung Quốc là hai nước chính sử dụng kênh đào Panama, tuyến đường chiếm 5% thương mại hàng hải của cả thế giới. Riêng đối với Mỹ, 40% lượng contener được chuyên chở qua kênh đào Panama. Đến thăm Panama, ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio kêu gọi chính quyền nước này giảm sự hiện diện của Trung Quốc tại Panama. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Pete Hegseth thì có những phát biểu cứng rắn hơn, khẳng định chính quyền Donald Trump sẽ không để Trung Quốc kiểm soát kênh đào Panama, thậm chí nhắc đến việc Mỹ có « lực lượng chiến đấu hùng mạnh nhất » như để răn đe Bắc Kinh không được thâu tóm kênh đào Panama : « Hoa Kỳ sẽ không cho phép chế độ Cộng Sản Trung Quốc, hoặc bất kỳ quốc gia nào khác, đe dọa hoạt động hoặc tính toàn vẹn của kênh đào. Nhiều công ty có trụ sở tại Trung Quốc vẫn đang kiểm soát cơ sở hạ tầng thiết yếu trong vùng Kênh đào. Điều này mang lại cho Trung Quốc khả năng tiến hành các hoạt động giám sát thông qua kênh đào Panama. Điều này khiến Panama và Hoa Kỳ kém an toàn hơn, ít thịnh vượng hơn và bớt chủ quyền hơn. Và như tổng thống Donald Trump đã nhấn mạnh, tình trạng này là không thể chấp nhận được. Tôi muốn nói rõ ràng. Kênh đào này không phải do Trung Quốc xây dựng. Trung Quốc không được quyền vận hành kênh đào này. Và Trung Quốc sẽ không được quân sự hóa kênh đào này. Cùng với Panama, chúng tôi sẽ giữ kênh đào an toàn để tàu thuyền của mọi quốc gia được lưu thông, nhờ khả năng răn đe của lực lượng chiến đấu mạnh nhất, hiệu quả nhất và đáng gờm nhất trên thế giới ». Sau khi gây sức ép khiến tập đoàn Hồng Kông CK Hutchison ký thỏa thuận nhượng lại quyền khai thác 2 cảng Balboa và Cristobal nằm ở hai đầu kênh đào Panama cho quỹ đầu tư BlackRock của Hoa Kỳ, theo thói quen « được đằng chân, lân đằng đầu », chính quyền Mỹ « dấn thêm 1 bước », đòi tái lập căn cứ quân sự tại Panama với lý do để bảo đảm « an ninh » cho kênh đào. Mỹ cũng đòi là các tàu quân sự của họ phải được ưu tiên di chuyển miễn phí qua kênh đào. Các chuyến tàu quân sự của Mỹ chiếm 0,3% lưu lượng tàu bè qua lại kênh đào Panama. Theo AFP, ngày 08/04, trong cuộc trao đổi với tổng thống Jose Raul Mulino, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Pete Hegseth yêu cầu Panama để Washington tái lập các căn cứ quân sự tại nước này. Dường như sự cứng rắn của Washington đã phát huy tác dụng, buộc Panama phải có sự nhượng bộ quan trọng, cho dù họ không chấp nhận để Washington tái lập căn cứ quân sự của Mỹ tại Panama. Hôm 10/04, chính quyền Panama thông báo cho phép quân đội Mỹ và các công ty quân sự tư nhân được Mỹ ủy quyền, được phép sử dụng một số địa điểm, cơ sở và khu vực được chỉ định để huấn luyện, triển khai các hoạt động nhân đạo và thao dợt. Theo thỏa thuận được ký kết giữa bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ và Panama, có giá trị 3 năm và có thể được triển hạn, các cơ sở nói trên dành cho lực lượng hai nước dùng chung nhưng vẫn thuộc sở hữu của Nhà nước Panama. Chiến tranh thương mại, « món quà tẩm độc » của Donald Trump dành cho Tổ chức Thương mại Thế giới ? Từ khi trở lại Nhà Trắng, tổng thống Mỹ Donald Trump tấn công cả đồng minh lẫn đối thủ xa gần bằng vũ khí thuế quan. Trong khi đó, Tổ chức Thương mại Thế giới WTO chỉ còn cách bất lực đứng nhìn chính quyền Trump ngang nhiên phá hủy những nguyên tắc mà chính Mỹ trước đây đã góp phần tạo dựng để điều tiết thương mại toàn cầu. Cuộc thương chiến do tổng thống Mỹ Donald Trump phát động được ví như món quà sinh nhật « tẩm độc » cho tuổi 30 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO (1995-2025). Từ Genève, thông tín viên Jérémie Lanche ngày 10/04 gửi về bài tường trình : « 'Giống như trong thời kỳ Covid, chẳng ai quan tâm đến Tổ chức Y tế Thế giới, bây giờ thì cũng chẳng ai quan tâm đến Tổ chức Thương mại Thế giới nữa.' Đây chính là điều được gọi là một nhận định không thể bác bỏ. Cédric Dupont là giáo sư về quan hệ quốc tế tại Graduate Institute ở Genève. Văn phòng của ông chỉ cách trụ sở Tổ chức Thương mại Thế giới 500 mét theo đường chim bay. Đây được dự đoán sẽ là nơi tập trung các vụ tranh cãi liên quan đến thuế quan của Hoa Kỳ. Giáo sư Cédric Dupont bình luận : « Quý vị đang nghe bộ trưởng của nhiều nước lên tiếng, tất cả họ đều đang tìm cách đàm phán với Washington. Ở Bruxelles hay ở Bắc Kinh, người ta nghiên cứu xem có thể làm được gì, nhưng tôi nghĩ là không có nhiều người đi vận động hành lang ở Tổ chức Thương mại Thế giới ». Theo Tổ chức Thương mại Thế giới, đòn tấn công của Donald Trump sẽ làm giảm 1% lượng hàng hóa giao dịch trên toàn thế giới trong năm 2025, tức là làm giảm hàng trăm tỷ đô la, trái ngược hoàn toàn với các cam kết của Hoa Kỳ với Tổ chức Thương mại Thế giới. Giáo sư Cédric Dupont nhận định : « Những gì Mỹ đang làm là bất hợp pháp. Nếu họ có vấn đề với một quốc gia, thì họ nên thảo luận trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới, nhưng Mỹ lại không làm như vậy. Đối với họ, Tổ chức Thương mại Thế giới không còn tồn tại ». Washington cũng đang ngăn chặn việc gia hạn nhiệm kỳ của các thẩm phán trong cơ quan phúc thẩm của Tổ chức Thương mại Thế giới, vốn dĩ chịu trách nhiệm giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Tổ chức Thương mại Thế giới bị tê liệt, bị ngó lơ, bị bỏ qua ... nhưng không vì thế mà chết hoàn toàn. Chuyên gia về quan hệ quốc tế của Graduate Institute giải thích thêm : « 85% hoạt động thương mại không phải là thông qua Hoa Kỳ, nên phần còn lại của thế giới có thể nói rằng chúng ta có thể giải quyết vấn đề này bên ngoài và chúng ta sẽ duy trì Tổ chức Thương mại Thế giới để giữ ổn định 85% hoạt động thương mại đó ». Donald Trump chưa bày tỏ mong muốn rời khỏi Tổ chức Thương mại Thế giới. Thế nhưng, đối với các nhà ngoại giao, giả thuyết đó là đáng tin cậy. Họ thận trọng không nói rõ là tới đây điều gì sẽ xảy ra với tổ chức này ». Đòn thuế quan không hồi kết của Donald Trump sẽ dẫn đến những hệ quả nào ? Cuộc đọ sức thuế quan giữa hai nền kinh tế hàng đầu Mỹ - Trung chưa có dấu hiệu ngừng lại, và không báo hiệu điều gì tốt đẹp cho nền kinh tế toàn cầu, cho dù ông Donald Trump đã tạm hoãn áp « thuế đối ứng » với thế giới 90 ngày. Bà Hélène Latzer, giáo sư kinh tế tại Đại học UCLouvain Saint-Louis ở Bruxelles, Bỉ, ngày 09/04 giải thích trên đài RFI Pháp ngữ : « Nếu Hoa Kỳ rơi vào suy thoái và nhìn chung nếu cuộc đọ sức này dẫn đến sự suy thoái chung, thì quả thực Trung Quốc sẽ lâm cảnh không còn thị trường đầu ra chính cho một số lượng hàng xuất khẩu, do đó cũng có nguy cơ Trung Quốc sẽ xoay hướng sang phần còn lại của thế giới để cố gắng bán những mặt hàng mà họ không còn có thể bán một cách dễ dàng cho Hoa Kỳ nữa. Đó là chưa kể Trung Quốc sẽ tìm cách lập tỷ giá mới cho đồng Nhân dân tệ, giúp cho hàng hóa của họ có khả năng cạnh tranh cao hơn bằng cách giảm giá đồng tiền của chính mình ». Nhưng hậu quả không chỉ có vậy. Giáo sư Hélène Latzer giải thích thêm : « Điều mà Trump làm còn là tạo ra một bầu không khí bất trắc, vốn dĩ là điều cực kỳ tệ hại đối với đầu tư của các doanh nghiệp, và xét về dài hạn là đối với các thị trường, đối với toàn thể các đối tác thương mại. Đối với nước Mỹ, thì trong bầu không khí này, thông báo mới cho thấy sự thay đổi đột ngột của Trump đi ngược lại hoàn toàn những gì ông đã nói trước đó. Hiểu theo một cách nào đó, điều Donald Trump đang nói với tất cả thế giới là không bao giờ mọi người có thể thực sự tin tưởng chắc chắn vào thông báo của ông và rằng ông Trump có thể thay đổi vào bất cứ lúc nào. Donald Trump như vậy đang phá vỡ một trật tự thế giới mà Hoa Kỳ đã xây dựng trong suốt 50 năm qua. Và trong mọi trường hợp, đây không phải là điều gì tốt đẹp cho nền kinh tế toàn cầu ». Trung Quốc tham chiến tại Ukraina ? Một hôm sau khi tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky tuyên bố Bắc Kinh biết việc có ít nhất 155 công dân Trung Quốc chiến đấu bên cạnh quân Nga tại Ukraina và chỉ trích Matxcơva đã lôi kéo Bắc Kinh tham chiến, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc hôm 10/04 khuyến cáo các bên « cần có cái nhìn công bằng, hợp lý về vai trò của Trung Quốc và không đưa ra các phát biểu vô trách nhiệm ». Vậy cần nhìn nhận như thế nào về đội quân của Trung Quốc hiện diện trên chiến trường Ukraina ? Trên đài RFI Pháp ngữ, ngày 09/04, chuyên gia về Trung Quốc đương đại Emmanuel Veron, nhà nghiên cứu cộng tác với Trường Hải quân và Viện Ngôn ngữ và Văn hóa phương Đông (INALCO), Paris, giải thích : « Quả thực, trong bối cảnh chiến tranh, như trường hợp ở Ukraina, và cũng như trong cuộc chiến tranh khác, chúng ta có thể thấy rằng có một số chiến binh thuộc nhiều quốc tịch và đến từ nhiều nước khác nhau. Có thể là những người này ký hợp đồng để gia nhập hàng ngũ các lực lượng vũ trang, lực lượng dân quân, hay bán quân sự … Về việc họ làm gián điệp, thì theo tôi cũng không hề mâu thuẫn. Việc này bổ trợ cho việc kia. Hoàn toàn có thể có người ký hợp đồng đến từ một công ty quân sự tư nhân làm việc cho người Nga và họ có thể là tình báo cho Trung Quốc hoặc thậm chí là cho những người khác. Ngoài ra, cũng có khả năng là trong số họ có những người gốc Hoa đến từ miền đông bắc Trung Quốc, có thể là gần Bắc Triều Tiên. Nói tóm lại, trong chuyện này chúng ta vẫn còn một số điều chưa rõ ràng và không chắc chắn. Trái lại, chúng ta có thể khẳng định họ nói tiếng Hoa. Điều này không có nghĩa rằng họ là người Trung Quốc, nhưng họ nói tiếng Hoa. Trong chiến tranh, về cơ bản thì không có logic nào là hoàn toàn chắc chắn. Việc Trung Quốc tham chiến chỉ nên nói kiểu ám chỉ, gián tiếp. Nhưng đúng là người Trung Quốc có hiện diện tại đó. »…
Welcome to Player FM!
Player FM is scanning the web for high-quality podcasts for you to enjoy right now. It's the best podcast app and works on Android, iPhone, and the web. Signup to sync subscriptions across devices.