Player FM - Internet Radio Done Right
22,482 subscribers
Checked 11h ago
Added nine years ago
Content provided by France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. All podcast content including episodes, graphics, and podcast descriptions are uploaded and provided directly by France Médias Monde and RFI Tiếng Việt or their podcast platform partner. If you believe someone is using your copyrighted work without your permission, you can follow the process outlined here https://player.fm/legal.
Player FM - Podcast App
Go offline with the Player FM app!
Go offline with the Player FM app!
Tạp chí tiêu điểm
Mark all (un)played …
Manage series 130288
Content provided by France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. All podcast content including episodes, graphics, and podcast descriptions are uploaded and provided directly by France Médias Monde and RFI Tiếng Việt or their podcast platform partner. If you believe someone is using your copyrighted work without your permission, you can follow the process outlined here https://player.fm/legal.
Thời sự quốc tế nổi bật qua lăng kính của RFI
69 episodes
Mark all (un)played …
Manage series 130288
Content provided by France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. All podcast content including episodes, graphics, and podcast descriptions are uploaded and provided directly by France Médias Monde and RFI Tiếng Việt or their podcast platform partner. If you believe someone is using your copyrighted work without your permission, you can follow the process outlined here https://player.fm/legal.
Thời sự quốc tế nổi bật qua lăng kính của RFI
69 episodes
Tất cả các tập
×
1 Nửa thế kỷ ''Hiệp định Helsinki'': Chiến tranh Ukraina xóa sổ "Kiến trúc an ninh châu Âu" 9:42
9:42
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked9:42
Vào thời điểm cuộc xâm lược Nga chống Ukraina kéo dài đã hơn ba năm và các nỗ lực to lớn của phương Tây hỗ trợ Kiev và trừng phạt Nga đã không đủ để giúp chấm dứt chiến tranh, giới chuyên gia, chiến lược gia đặt ra nhiều câu hỏi về tương lai chung của an ninh châu Âu. Làm thế nào để chấm dứt cuộc chiến tranh có nguy cơ châm ngòi cho một xung đột quy mô toàn châu lục, thậm chí toàn cầu ? Năm nay 2025 là tròn 50 năm Hiệp định Helsinki. Hiệp định, được ký kết ngày 01/08/1975 tại thủ đô Phần Lan thời Chiến tranh Lạnh, là kết quả của hai năm đàm phán trong khuôn khổ của Hội nghị về An ninh và Hợp tác châu Âu (CSCE) (1973 – 1994) (thường được gọi là « tiến trình Helsinki ») cho phép mở ra thời kỳ tan băng giữa khối phương Tây và khối cộng sản, đứng đầu là Hoa Kỳ và Liên Xô, hai siêu cường hạt nhân. Tuyên bố 10 điểm Helsinki được ký kết bởi tất cả các quốc gia thành viên hai tổ chức quân sự thù địch, Liên minh phòng thủ Bắc Đại Tây Dương – NATO và Hiệp ước Varsava. Hiệp định Helsinki: Nền móng của « Kiến trúc an ninh châu Âu » Các nguyên tắc của Hiệp định Helsinki, như tôn trọng chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, giải quyết các tranh chấp bằng con đường hòa bình, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản, tăng cường hợp tác giữa các nước… là thỏa hiệp mà hai khối đạt được. Theo nhiều nhà quan sát, Hiệp định này đã cho phép Liên Xô cải thiện hình ảnh trên trường quốc tế sau các đàn áp tàn bạo nhắm vào phong trào dân chủ Mùa xuân Praha năm 1968. Về phía các nước phương Tây, một thành công căn bản là lần đầu tiên nhân quyền được coi là một vấn đề an ninh căn bản trong quan hệ giữa các quốc gia. Hiệp định Helsinki tiếp tục có ý nghĩa quan trọng sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Liên Xô tan rã. Năm 1990, sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Hội nghị về An ninh và Hợp tác châu Âu – CSCE, họp tại Paris, đã ra một « Hiến chương Paris vì một châu Âu mới » ghi nhận sự chấm dứt của thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Với Hiến chương Paris vì một châu Âu mới, CSCE có các cơ quan thường trực, như Ban thư ký, hay Trung tâm ngăn ngừa các xung đột, và các cơ chế can thiệp, để sẵn sàng đối phó với các thách thức của kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh. Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) , kế tục Hội nghị CSCE từ năm 1995, đã mở ra khả năng quản lý các xung đột của thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh tại châu Âu bằng con đường hòa bình. Hiệp định Helsinki và các cơ chế, tổ chức phát sinh, cùng với các hiệp ước cắt giảm và kiểm soát vũ khí chiến lược Mỹ - Liên Xô và sau này là Mỹ - Nga, đã cho phép tạo lập lòng tin giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau. Hiệp định Helsinki được coi là nền tảng của « kiến trúc an ninh châu Âu » trong nhiều thập niên. Chiến tranh Ukraina và Hiệp định Helsinki, từ suy yếu đến tan vỡ Đông đảo chuyên gia, nhà quan sát ghi nhận là cuộc xâm lược Ukraina của Nga đã báo tử « trật tự an ninh của châu Âu », được xác lập từ năm 1975 với Hiệp định Helsinki. Cựu đại sứ Pháp Pierre Vimont, nguyên tổng thư ký điều hành của cơ quan đối ngoại Liên Âu, tức nhân vật số hai của ngành ngoại giao Liên Âu (2010-2015), trong bài viết « Một trật tự an ninh châu Âu mới », nhấn mạnh với « chiến dịch quân sự đặc biệt » tại Ukraina, điện Kremlin đã tấn công vào « chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ », những nguyên tắc căn bản nhất của Hiệp định Helsinki, nền tảng của thế cân bằng tại châu Âu được xác lập một cách gian nan vào năm 1975. « Hợp tác kinh tế được dày công vun đắp từ hơn 40 năm qua bị hủy hoại với các đòn trừng phạt kinh tế và tài chính của phương Tây » nhắm vào Nga, « quan hệ giữa các xã hội dân sự, thành tố chủ chốt thứ ba của Hiệp định Helsinki, cũng đứng trước nguy cơ bị cắt đứt hoàn toàn do cuộc xung đột với các áp lực tẩy chay văn hóa Nga và xã hội Nga ». Cựu đại sứ Pháp Pierre Vimont ghi nhận việc kiến trúc an ninh châu Âu, ra đời với Hiệp định Helsinki, trên thực tế, đã suy yếu nghiêm trọng từ lâu trước khi Nga mở màn cuộc xâm lăng Ukraina, đặc biệt với cuộc can thiệp quân sự của Nga tại Gruzia, quốc gia thuộc Liên Xô cũ, vào năm 2008 (sau khi Mỹ để ngỏ khả năng Gruzia gia nhập khối NATO) và việc Nga thôn tính bán đảo Crimée năm 2014 và hậu thuẫn các lực lượng ly khai miền đông Ukraina, sau chính biến Maidan, đầu 2014, lật đổ lãnh đạo thân Nga Viktor Yanukovych. Tái xây dựng lòng tin hay đại cường phân chia thế giới: Hướng đến « Helsinki II » hay « Yalta II » ? Trước thềm cuộc xâm lăng Ukraina, cuối năm 2021, đầu năm 2022, Matxcơva liên tục phát đi các tín hiệu đòi phương Tây, trước hết là Mỹ, xem xét lại « kiến trúc an ninh châu Âu », đòi khối NATO không tiếp tục mở rộng sang phía đông, không kết nạp Ukraina, đồng thời giảm sự hiện diện quân sự tại các nước thành viên mới của NATO tại khu vực thuộc khối Đông Âu cộng sản trước đây, như Ba Lan, Rumani hay các nước Baltic. Đọc thêm : Châu Âu không muốn một Yalta II mà Nga đang cố áp đặt Đề nghị lúc đó của Nga đã bị Mỹ và các nước châu Âu bác bỏ. Ngoại trưởng Pháp vào thời điểm đó, Jean-Yves Le Drian , nhận định là đòi hỏi của Nga « rất giống với việc quay trở lại hiện trạng trước năm 1975, tức là một kiểu Yalta II, sẽ dẫn đến việc hình thành trở lại các khối, các vùng ảnh hưởng ». Hội nghị Yalta, rồi hội nghị Potsdam, diễn ra năm 1945, sau Thế Chiến Hai, được coi là các sự kiện có ý nghĩa biểu tượng cho việc các cường quốc thắng trận, Mỹ và Liên Xô, phân chia các khu vực kiểm soát. Ngoại trưởng Pháp nhấn mạnh là, để chống lại một « Yalta II », « cần phát triển một chiến lược thúc đẩy một Helsinki II, theo tinh thần những cam kết mà toàn bộ các nước ký kết các hiệp định Helsinki đã đưa ra năm 1975, trong đó có Liên Xô vào thời điểm đó, được tiếp nối với Hiến chương Paris (vì một châu Âu mới) năm 1990 ». Liên Âu tê liệt về « tư duy chiến lược » trước thời điểm sống còn Vấn đề là để thúc đẩy được tinh thần Helsinki 1975, hướng đến xác lập một « Helsinki II », làm nền tảng cho một « kiến trúc an ninh châu Âu mới », các nước châu Âu phải xác lập được một tư duy chiến lược chung, trong đó quan hệ như thế nào với Nga là vấn đề cốt lõi. Nội bộ châu Âu phân rẽ sâu sắc về vấn đề này, từ nhiều năm nay. Trước chiến tranh Ukraina, các nỗ lực cải thiện quan hệ với Nga của nhiều lãnh đạo ngoại giao Liên Âu, từ Federica Mogherini đến Joseph Borell, đều không thuyết phục được Matxcơva. Kể từ khi chiến tranh bùng nổ, việc thảo luận về chủ đề này coi như kết thúc. Theo nhà ngoại giao Pháp Pierre Vimont, có một hố sâu ngăn cách giữa nhóm các nước cho rằng không thể đối thoại với Nga (đa số là các nạn nhân trước đây của đế chế Nga và Liên Xô), coi Nga là một đe dọa sinh tồn, và các nước cổ vũ cho việc mở ra các cơ hội đối thoại để vượt qua tình trạng mất lòng tin song phương. Đọc thêm : Chính sách quan hệ với Nga : Liên Hiệp Châu Âu và sự « chia năm xẻ bảy » Trong một cuộc trả lời Viện Nghiên cứu Cao cấp về Quốc phòng (IHEDN - Institut des hautes études de défense nationale) Pháp vào thời điểm hơn hai năm chiến tranh Nga - Ukraina, nhà chính trị học Barbara Kunz, giám đốc chương trình An ninh châu Âu của Viện Nghiên cứu về Hòa bình Quốc tế ở Stockholm (SIPRI) nhận định : « Tôi cho rằng tại châu Âu, thảo luận về vấn đề này sẽ rất là phức tạp, bởi có hai trường phái. Thứ nhất là những nước cho rằng cần phải cô lập Nga hoàn toàn, cụ thể như hoàn toàn không chấp nhận sự có mặt của các đại diện của Nga trong các hội nghị của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu OSCE. Và thứ hai là các nước có quan điểm gọi là ‘‘thực tế’’. Những nước này trong lúc luôn cảnh giác về đe dọa từ Nga, nhưng khẳng định cần phải tìm ra các cách thức cho phép ít nhất là sống bên cạnh Nga, cho dù không thể cùng chung sống với Nga. Tìm ra được những cách thức hợp tác tối thiểu, ví dụ như trong việc kiểm soát vũ khí, để tránh leo thang, tìm thấy các cơ chế đối thoại để tránh tình hình trở nên tồi tệ hơn hiện nay . » Nước Mỹ của Trump: Bị đẩy vào chân tường, châu Âu buộc phải hướng đến « tự chủ chiến lược » Theo chuyên gia về an ninh châu Âu Viện Nghiên cứu về Hòa bình Quốc tế Stockholm, đối thoại để tìm kiếm một kiến trúc an ninh mới cho châu Âu một phần đáng kể bị cản trở do sự bất đồng cao độ và thái độ thụ động của đông đảo các nước châu Âu, lập trường của Mỹ có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh này: « Cuộc thảo luận về tương lai của kiến trúc an ninh châu Âu, tôi có cảm giác là chưa thực sự bắt đầu. Hiện tại, chúng ta đang tập trung vào chiến tranh tại Ukraina, điều hoàn toàn có thể thông cảm được. Để nói một cách tóm lược, các nước ở sườn đông châu Âu, như các nước vùng Baltic, Ba Lan, Rumani, và những nước khác vốn có những kinh nghiệm lịch sử với Nga, khiến họ có thái độ hoài nghi cao độ về khả năng cùng tồn tại với Nga. Nước Đức có quan điểm như thế nào ? Về mặt lịch sử, trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Đức thiên về phía các nước có quan điểm thực tế, tức tìm kiếm các khả năng chung sống với Nga. Điều này còn để xem. Nước Pháp tôi cho rằng cũng theo quan điểm thực tế. Các nước phía nam châu Âu, tôi nghĩ cũng tương tự, không nghi ngờ gì về đe dọa của Nga, nhưng đối với nhiều nước, đây không phải là chủ đề ưu tiên. Tôi cho rằng, rất nhiều điều trong vấn đề này phụ thuộc vào vai trò dẫn dắt của Mỹ. Bởi các nước châu Âu rất khó đạt đồng thuận về tiếp cận chung cần theo đuổi . » Đọc thêm : Tự chủ chiến lược của Liên Hiệp Châu Âu là một viễn cảnh xa vời (quan điểm của lãnh đạo đảng bảo thủ Đức năm 2022) Việc Donald Trump trở lại Nhà Trắng đầu năm 2025 này, và các chính sách của Washington trong những tuần cầm quyền đầu tiên của Trump cho thấy quan hệ hai bờ Đại Tây Dương bước vào một giai đoạn đầy bất định. Tân tổng thống Mỹ coi việc chấm dứt chiến tranh là ưu tiên cho dù có phải chấp nhận nhiều nhân nhượng với Nga, và việc hậu thuẫn Ukraina được coi gần như là chuyện riêng của châu Âu, khối NATO mà Mỹ là trụ cột sẽ không can dự. Bảo vệ Ukraina và tái lập quan hệ với Nga: Thách thức của một « kiến trúc an ninh châu Âu » mới Việc đảng Cộng Hòa cầm quyền tại Mỹ là tác nhân trực tiếp kích phát trở lại đòi hỏi « tự chủ chiến lược » của châu Âu, vốn bị nhiều quốc gia chủ chốt của châu Âu như Đức không mặn mà. Hôm nay, 06/03/2025, Liên Hiệp Châu Âu họp thượng đỉnh để bàn về việc tăng cường tiềm lực quốc phòng của khối và hỗ trợ quân sự cho Ukraina. Tuy nhiên, « tự chủ chiến lược » không chỉ gồm vế quân sự, mà ngoại giao cũng cần phải đóng vai trò cơ bản. Theo nhà ngoại giao Pháp Pierre Vimont, nguyên tổng thư ký điều hành của cơ quan đối ngoại Liên Âu, bên cạnh việc dành sự hậu thuẫn quân sự mạnh mẽ để giúp Ukraina tự vệ, Liên Hiệp Châu Âu cần chuẩn bị xác lập quan hệ hợp tác với Nga sau chiến tranh. Nhà ngoại giao, được tổng thống Pháp Emmanuel Macron bổ nhiệm làm đại diện đặc biệt của tổng thống trong các đối thoại vì « một kiến trúc an ninh châu Âu và xây dựng niềm tin với Nga » trước khi chiến tranh bùng nổ, lưu ý đến bài học lịch sử : tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt không phải đợi đến khi Thế chiến Hai kết thúc mới chuẩn bị cho việc xây dựng một hệ thống quốc tế mới, và « những người sáng lập » Liên Âu cũng đã chuẩn bị nền móng cho việc xây dựng khối, nhiều năm trước 1945. Cũng nhà ngoại giao kỳ cựu này, trong một bài viết với nhan đề « Châu Âu và Ukraina : Lấy lại thế chủ động » (nguyên văn " Europe et Ukraine : reprendre l’initiative ", Viện nghiên cứu châu Âu Jacques Delors), ra mắt cuối tháng 1/2025, nhấn mạnh : « Thời kỳ bất ổn sẽ còn kéo dài trên lục địa châu Âu do các đe dọa Nga không cho phép trật tự Helsinki trở lại nhanh chóng. Nhưng thời kỳ căng thẳng không tránh khỏi diễn ra trong quá trình xác lập hòa bình tại Ukraina này sẽ là một trắc nghiệm đối với khả năng của châu Âu muốn vươn lên để trở thành một thực thể địa chính trị độc lập, điều mà người châu Âu mong muốn ». Thách thức với châu Âu không phải chỉ là tái lập quan hệ với Nga để xây dựng một kiến trúc an ninh mới cho châu Âu, mà còn là « sáng tạo nên một cơ chế đa phương quốc tế mới » trong bối cảnh cơ chế đa phương quốc tế được xác lập sau Thế chiến Hai đang « sụp đổ », cơ chế cần thiết lập để hóa giải hàng loạt thách thức sống còn với nhân loại, như đại khủng hoảng khí hậu, đang cần đến các cơ chế hợp tác mới giữa các nước phương Tây với các nước phương Nam toàn cầu.…

1 An ninh cho Ukraina : Thủ tướng Anh hy vọng đóng vai trò « cầu nối » giữa Mỹ và châu Âu 15:43
15:43
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked15:43
Ngày 16/02/2025, trong bài diễn đàn đăng trên nhật báo Anh The Telegraph, thủ tướng Anh tuyên bố khẳng định chính phủ Anh sẵn sàng « tham gia bảo đảm an ninh cho Ukraina qua việc gởi quân đến nếu cần thiết ». Quan điểm này đã được lãnh đạo chính phủ Anh nhắc lại trong hội nghị không chính thức giữa các lãnh đạo châu Âu diễn ra tại Paris một ngày sau đó khi đưa ra thông điểm rất rõ ràng : Hòa bình bằng sức mạnh. Vì sao Anh Quốc luôn tỏ ra kiên bảo vệ Ukraina ? Luân Đôn tính gì khi khá ủng hộ các lập trường của Paris và không phê phán các đường lối của chính quyền Trump hiện nay ? Mời quý vị theo dõi phần giải thích của thông tín viên Nguyễn Giang tại Luân Đôn. ---------- ********* ---------- RFI Tiếng Việt : Anh Quốc và Ukraina có quan hệ như thế nào ? TTV Nguyễn Giang : Mối quan hệ giữa Anh và Ukraina đã có từ lâu, nhưng sự kiên quyết của Anh Quốc trong việc hỗ trợ Ukraina trở nên rõ ràng hơn trong bối cảnh gần đây. Vào tháng Giêng năm 2025, thủ tướng Sir Keir Starmer đã ký kết Hiệp ước Đối tác-Đồng minh 100 năm giữa Anh và Ukraina cùng tổng thống Volodymyr Zelensky, thiết lập 9 trụ cột cho quan hệ song phương, bao gồm: Quốc phòng, An ninh, Hàng hải, Kinh tế & Thương mại, Năng lượng & Khí hậu, Tư pháp, Chống lũng đoạn Thông tin, Khoa học & Công nghệ, và Văn hóa-Thể thao. Trước đây, dưới thời thủ tướng Boris Johnson, vào tháng 2/2022, Anh ký với Ba Lan và Ukraina một hiệp ước an ninh ba bên (trilateral security pact), vừa để hỗ trợ hai nước kia chống lại Nga, vừa giúp Anh có một vị trí chiến lược Đông Âu. Hiệp ước này được ký sau khi ba nước Pháp-Đức và Ba Lan ký thỏa thuận có tên là « Tam giác Weimar » nhằm tạo xương sống cho chiến lược chống Nga của ba thành viên đông dân của Nato châu Âu và EU. Nhưng việc ký kết liên minh sâu nặng như thế 100 năm với Ukraina là điều hiếm xảy ra với Anh. Bởi nước này có truyền thống thực dụng là giữ cho lục địa châu Âu không bị một nước nào thống trị, và trên đại dương thì Anh phải thống trị. Ví dụ năm 1806, Anh đã cấm vận (embargo, blockade) vùng biển ra Đại Tây Dương để nước Pháp của Napoleon không thể vươn ra biển. Anh chỉ bỏ bao vây Pháp trên biển vào đúng ngày 11 tháng 4 năm 1814 khi Napoleon thoái vị. Sau khi Đức mạnh lên thì đã có một Liên minh Trái tim (Entente Cordiale) đã được Anh ký với Pháp năm 1904, thời Vua Edward VII. Bởi vậy, có thể nói liên minh 100 năm với Ukraina là rất đặc biệt, cho phép Anh có mặt ở khu vực Đông Âu. Sự ủng hộ cho Ukraina nhận được sự đồng thuận từ cả hai đảng lớn của Anh: Đảng Lao động (đang cầm quyền) và Đảng Bảo thủ (đối lập), cũng như các đảng nhỏ hơn như LibDem và Đảng Xanh. Điều này cho thấy một sự đồng thuận chính trị mạnh mẽ trong việc bảo vệ Ukraina chống lại các mối đe dọa từ Nga. Ngay cả ông Nigel Farage, một nhân vật có tiếng trong phong trào cánh hữu, cũng đã bác bỏ những lời chỉ trích của tổng thống Trump về Tổng thống Zelensky « là nhà độc tài » mới đây. Truyền thông Anh và người dân cũng tích cực hỗ trợ, với khoảng 25.000 người Ukraina được tiếp nhận để tị nạn trong suốt ba năm qua. Luân Đôn đánh giá mối đe dọa từ Nga cho an ninh nước Anh như thế nào ? TTV Nguyễn Giang : Về mặt tâm lý, theo chuyên gia David Landsman, nước Nga vẫn là một quốc gia ít quen thuộc nhưng lại là « kẻ thù quen thuộc » với người Anh (unfamiliar country but a familiar enemy), nhất là sau sự kiện an ninh Nga (GRU) cử người sang gây ra vụ đầu độc tại Salisbury trên đất Anh. Người Anh nhận thấy Nga đã xâm lược Ukraina, và điều này làm sống lại những ký ức về kẻ thù cũ. Cả hai phía trong cuộc tranh luận Brexit đều đồng ý rằng, sau khi ra khỏi EU, Anh cần phải khôi phục vị thế của mình trên trường quốc tế, trong đó việc hỗ trợ Ukraina chống lại Nga được coi là « quyền lực thông qua giá trị đạo đức ». Về phương diện kinh tế, Anh đã giảm sự phụ thuộc vào khí đốt Nga từ tháng 2/2022, điều này đã tạo thuận lợi cho chính trị Anh trong việc phát biểu mạnh mẽ về vấn đề Nga, khác với Đức, nước cho tới gần đây vẫn chịu ảnh hưởng lớn tác động của nguồn năng lượng khí đốt của Nga. Trong các nước châu Âu, Anh là quốc gia có nền kinh tế mở, hướng ra thế giới hơn hẳn các nước ở lục địa, gần Nga, gần biển Baltic và Hắc Hải, nên Anh có thể không bị ràng buộc nhiều bởi các lợi ích cục bộ gắn với Nga. Là đồng minh lâu đời của Mỹ và luôn đi theo chiến lược của Mỹ, nhưng Luân Đôn không những không chỉ trích Washington về việc bỏ rơi Kiev mà còn tuyên bố sẵn sàng gởi quân sang đảm bảo an ninh cho Ukraina. Thủ tướng Anh còn tỏ lập trường ủng hộ quan điểm của Pháp. Thủ tướng Anh trông đợi điều gì tổng thống Trump nhân chuyến thăm Mỹ ? TTV Nguyễn Giang : Cho dù là đồng minh lâu dài của Mỹ, lần này Anh không chỉ trích Mỹ về việc bỏ rơi Kiev mà ngược lại, còn cam kết cử quân sang Ukraina. Thủ tướng Starmer muốn đóng vai trò cầu nối giữa Mỹ và châu Âu. Sự bắt tay giữa Starmer và Macron diễn ra trong bối cảnh mà cả hai bên cần tăng cường quan hệ, nhất là khi vị thế của Macron tại châu Âu đang bị lung lay. Luân Đôn nhận ra rằng không thể "tái xác lập" quan hệ với EU mà thiếu sự ủng hộ từ Paris. Đảng Lao động ở Anh phải tăng cường quan hệ với Pháp để gia tăng sức mạnh đối phó với mối đe dọa từ Nga, khi mà chính quyền Trump có xu hướng thiên về cánh hữu. Chuyến công du Mỹ của thủ tướng Starmer nhằm mục tiêu thuyết phục Tổng thống Trump đảm bảo an ninh cho Ukraina sau chiến tranh. Ông Starmer đã công bố ngân sách quốc phòng mới, dự kiến tăng từ 2.3% lên 2.5% GDP vào năm 2027, với kế hoạch nâng lên 3% GDP đến năm 2030. Bên cạnh đó Anh sẵn sàng đưa quân sang Ukraina để gìn giữ an ninh cho đường phi giới tuyến trong tương lai. Điều này nhằm thể hiện sự cam kết của Anh trong việc cùng đồng minh châu Âu gánh vác trách nhiệm bảo vệ khu vực NATO. Cùng lúc, tân đại sứ Anh tại Mỹ, Peter Mandelson nói hai nước muốn một MEGA – Make Economies Great Again – tức là một hiệp định tự do thương mại lớn, đẩy mậu dịch song phương lên hơn mức hiện nay là gần 300 tỷ bảng/năm. Chưa rõ là trong hai hồ sơ : Quốc Phòng và Kinh Tế - Thương Mại thì ông Trump mặn mà hơn với Anh ở hồ sơ nào. Pháp có thể giúp được gì cho chiến lược của Anh về hồ sơ Ukraina? TTV Nguyễn Giang : Ngay sau khi tổng thống Pháp Emmanuel Macron có cuộc gặp với đồng cấp Mỹ Donald Trump ở Nhà Trắng hôm thứ Hai thì sang ngày thứ Ba, 25/02, ông Macron đã điện đàm với thủ tướng Anh Starmer, hẳn là để trao đổi trước khi ông Starmer tới Mỹ gặp ông Trump thứ Năm 27/02 này. Có lẽ chính giới Anh và Pháp vẫn đang cân nhắc xem họ giúp nhau được gì, để đối phó với Mỹ và để thể hiện uy lực tối đa của hai cường quốc duy nhất trong NATO ở châu Âu đang sở hữu vũ khí nguyên tử, đã cam kết hợp tác về an ninh châu Âu. Ví dụ tổng thống Macron nói Pháp sẵn sàng dùng cái ô nguyên tử bảo vệ cho Đức, và kêu gọi Anh cũng làm như thế. Để đảm bảo hỗ trợ hiệu quả cho Kiev, cả Paris và Luân Đôn đều cần có sự tham gia của Berlin, dưới thời tân thủ tướng của đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo (CDU), Friedrich Merz. Ông Merz tuyên bố tân chính phủ Đức có nhiệm vụ làm cho Đức tự chủ hơn so với Mỹ về an ninh và quốc phòng, điều này có thể dẫn đến khả năng hợp tác tốt giữa ba nước lớn nhất châu Âu. Hiển nhiên là nếu ba nước này không hợp tác chặt chẽ, sẽ rất khó khăn để đạt được những nỗ lực hỗ trợ Ukraina một cách hiệu quả. Anh Quốc có thể có vai trò gì trong trường hợp Mỹ rút lui khỏi Ukraina ? Liệu nước Anh có thay thế được Mỹ bảo đảm an ninh cho Ukraina ? TTV Nguyễn Giang : Hiện tại, chính giới Anh chưa có kế hoạch thay thế Mỹ tại Ukraina và vẫn muốn thuyết phục Mỹ ở lại châu Âu. Vai trò của Anh chủ yếu là đánh giá xem một phương án hợp tác cùng Pháp, Đức, và Ba Lan có khả năng đảm bảo an ninh cho Ukraina trong bối cảnh mối đe dọa từ Nga tiếp tục hiện hữu hay là không, và một khi Hoa Kỳ rút hay giảm vai trò tại châu Âu thì họ sẽ phải làm gì. Tuy thế, cũng có ý kiến như của nhà báo Ian Dunt nói trước sau gì thì Anh và châu Âu cũng cần « độc lập khỏi Mỹ » trong vấn đề an ninh, nên đây là cơ hội để London đi theo chiến lược đó. Ngoài đảng Lao động đang cầm quyền thì cả hai đảng đối lập ở Anh (Bảo thủ và Tự do Dân chủ) đều đồng ý về việc tăng chi tiêu quốc phòng « để phòng chống Nga ». Tuy nhiên, có sự lo ngại trước việc cắt giảm viện trợ phát triển toàn cầu của Anh từ 0.5% GDP xuống 0.3% GDP, theo nhà báo Robert Peston. Ông cho rằng điều này có thể làm giảm sức mạnh mềm của Anh, nhất là khi Trung Quốc đang gia tăng ảnh hưởng tại nhiều khu vực, bao gồm cả châu Phi. Mặc dù vậy, một phần dư luận tại Anh có vẻ đồng ý với chính phủ là cần tăng chi tiêu quốc phòng. Trên trang của BBC, một bài viết về việc tăng chi tiêu quốc phòng và giảm viện trợ hải ngoại (Starmer cuts aid to fund increase in defence spending-26/02) #đã thu hút trên 5 ngàn bình luận chỉ sao một ngày. Trong phần bình luận nhiều người đã ủng hộ việc tăng chi tiêu quân sự mà không ngần ngại cắt giảm viện trợ cho các nước khác để « cứu người nghèo và vô gia cư trong nước Anh ». Nhưng thú vị hơn là có một số ý kiến đặc biệt nhấn mạnh rằng những hợp đồng quốc phòng nên được trao cho các công ty vũ khí Anh và châu Âu, mà không giao cho các công ty Mỹ, với lý do các công ty này thường đi kèm với điều kiện khắt khe trong các hợp đồng. Ý kiến cá nhân này còn cho rằng « Hoa Kỳ nay đang ngày một trở nên một quốc gia côn đồ » ( British defence firms should be first priority, then European allies’ firms second. US defence firms must now be avoided at all costs – the last thing we need is military kit that has both parts/maintenance and usage rules attached to an increasingly rogue state ). Tất nhiên, đó chỉ là một ý kiến cá nhân, và theo tôi, đa số người dân Anh vẫn yêu quý nước Mỹ. Thế nhưng giống như đại đa số các tờ báo chính ở đây, người ta thấy những gì ông Trump hơn một tháng qua là rất đáng lo ngại cho tương lai nước Anh vì cấu trúc an ninh 80 năm qua (Anh dựa vào Mỹ) đang tan vỡ.…

1 Mỹ muốn sớm chấm dứt chiến tranh Ukraina để tập trung đối đầu với Trung Quốc ? 9:30
9:30
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked9:30
Trong những ngày giữa tháng 2/2025, thế giới bất ngờ với hàng loạt hành động của tân tổng thống Mỹ Donald Trump. Ngày 12/02, Trump điện đàm với tổng thống Nga Vladimir Putin. Ít ngày sau Mỹ và Nga tổ chức họp cấp cao để tái lập quan hệ, mở ra viễn cảnh chấm dứt giai đoạn đối đầu ba năm giữa Washington với Matxcơva kể từ khi Nga mở màn cuộc xâm lăng Ukraina. Cho dù không phải là chấm dứt được chiến tranh Ukraina « trong vòng 24 giờ » sau khi nhậm chức như các tuyên bố rầm rộ trước đó, hành động của Donald Trump rõ ràng cho thấy tổng thống thứ 47 của nước Mỹ muốn khép lại mau lẹ cuộc chiến Nga – Ukraina. Sớm chấm dứt chiến tranh Ukraina bằng mọi giá, để có thể tập trung đối đầu với Trung Quốc, phải chăng là mục tiêu chính của Donald Trump ? « Ác mộng Munich » của châu Âu … Trump gây sốc với « các đồng minh » châu Âu và Ukraina khi để ngỏ khả năng đàm phán riêng rẽ với Putin trong việc chấm dứt chiến tranh Nga – Ukraina, và tỏ ra sẵn sàng có nhiều nhân nhượng với Matxcơva « trên lưng » Kiev. Diễn đàn an ninh quốc tế Munich tại Đức, được tổ chức hàng năm từ 1963, vốn thường là dịp để các đồng minh, đối tác phương Tây siết chặt quan hệ, đã trở thành một « cơn ác mộng » với châu Âu - diễn đạt của chủ tịch Hội nghị An ninh Munich, Christoph Heusgen -, phơi bày trước toàn thế giới thái độ thù địch của tân chính quyền Mỹ với Liên Âu. Ấn tượng để lại đối với đông đảo chính giới và công luận châu Âu là tân tổng thống Mỹ sẵn sàng thay bạn đổi thù , coi chế độ Putin – thủ phạm của cuộc chiến xâm lăng như « đồng minh ». Trong một phát biểu hôm 19/02, Trump thậm chí còn đổi trắng thay đen, khẳng định Ukraina mới là kẻ châm ngòi cho chiến tranh, và tổng thống Volodymyr Zelensky là « kẻ độc tài », hoàn toàn không được người Ukraina ủng hộ. … và nỗ lực của Trump tái lập « thế lưỡng cực đại cường thời Chiến tranh Lạnh » với Nga Chuyên gia về quan hệ quốc tế kỳ cựu người Pháp Bertrand Badie, giáo sư danh dự Đại học Sciences Po, Paris, nói đến việc Trump và Putin muốn nối lại với cách hành xử của hai đại cường thời Chiến tranh Lạnh, khi Mỹ và Liên Xô từng chia vùng ảnh hưởng, cùng đưa ra các tiếng nói quyết định trong việc xử lý các xung đột lớn của thế giới. Trả lời đài Arte, Bertrand Badie nhận định : « Điều đầu tiên mà chúng ta có thể thấy là hoài niệm về một thế giới lưỡng cực thời Chiến tranh Lạnh, khi tổng thống Mỹ Nixon và lãnh đạo Liên Xô Brejnev điện thoại cho nhau để bàn chuyển giải quyết các vấn đề của thế giới trên đầu các nước, từ thế giới Ả Rập, Israel đến châu Âu, châu Phi… Đấy là một thời tuyệt vời ! Trump nghĩ rằng Putin cũng nghĩ tương tự. Điều này rõ ràng là một kịch bản đen tối với thế giới, khi 191 quốc gia còn lại rút ra khỏi sân khấu chính trị quốc tế ». Theo giáo sư Bertrand Badie, mong ước nối lại quan hệ kiểu hai đại cường Chiến tranh Lạnh, đây thực ra chỉ là « hoài niệm » và giờ đây Mỹ không còn là siêu cường duy nhất thống trị thế giới như hai thập niên đầu tiên kể từ khi khối Liên Xô tan rã. Trump và các cộng sự cầm quyền tại Washington ắt hẳn cũng không ngây thơ tin vào điều này. Dè chừng Trung Quốc, đối thủ số một Giới quan sát ghi nhận, trong những tuần vừa qua, kể từ khi nhậm chức, Trump tung ra hàng loạt đe dọa dữ dội về tăng mạnh thuế nhập khẩu, về chiếm đoạt chủ quyền lãnh thổ, nhắm vào nhiều « đồng minh » của Washington, như Canada hay Đan Mạch, và « đối tác » của Trung Quốc như Panama. Ông Trump cũng tung đòn tấn công hủy diệt nền móng của thương mại quốc tế, với việc báo tử hệ thống thuế quan đã định hình từ sau Thế Chiến Hai khi tuyên bố sẵn sàng áp « thuế đối ứng », ăn miếng trả miếng với bất cứ quốc gia nào. Trong ngày qua, Nhật Bản hay Ấn Độ đã buộc phải có một số nhân nhượng với tân chủ nhân Nhà Trắng. Riêng với Trung Quốc, Trump tỏ ra dè dặt. Bắc Kinh đã đáp trả loạt tăng thuế 10% với 450 tỉ đô la hàng Trung Quốc xuất khẩu vào Mỹ với một số biện pháp tăng thuế khác ở quy mô hẹp. Dè dặt với Bắc Kinh, với Washington, Trung Quốc mới thực sự là đối thủ hàng đầu chứ hoàn toàn không phải Nga. Tân bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Pete Hegseth, tại hội nghị Munich tuần qua, thừa nhận: « Chúng ta cũng phải đối mặt với một đối thủ ngang hàng là chế độ cộng sản Trung Quốc, với năng lực và ý đồ đủ sức đe dọa chính nước Mỹ, và các lợi ích quốc gia cốt lõi của chúng ta ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương ». Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ nói thẳng là « an ninh châu Âu không phải là ưu tiên » của Mỹ, đồng thời nhấn mạnh : « Mỹ đang dồn lực cho mục tiêu răn đe Trung Quốc gây hấn ở Thái Bình Dương ». Chuyên gia về quan hệ quốc tế Philip Golub , Viện Nghiên cứu châu Âu và Đại học Mỹ ở Paris The American University of Paris, trong một cuộc tọa đàm trên TV5 Monde, nhấn mạnh đến nỗ lực của tổng thống Mỹ nhanh chóng khép lại xung đột Ukraina – Nga, nhằm dồn lực đối phó với Bắc Kinh : « Cho đến rất gần đây, nước Mỹ vẫn đi theo chiến lược ngăn chặn Nga để bảo đảm an ninh của lục địa châu Âu, theo cách hiểu về an ninh của Washington. Điều vừa diễn ra là hoàn toàn đi theo một hướng khác. Đây là nỗ lực hội nhập Nga, tái hội nhập Nga không chỉ vào nhóm G7, với việc trở lại với G8, mà còn hành động sao cho để Nga và Trung Quốc ít nhiều rời xa nhau. Về quyết sách địa - chiến lược, các nhà hoạch định chính sách Mỹ hiện nay chú trọng đến việc Mỹ rút một cách triệt để khỏi châu Âu về lĩnh vực an ninh, rút khỏi các xung đột lớn ở Trung Đông, để tập trung vào cuộc chơi lớn của thế kỷ 21. Mà theo cách nhìn của họ, đối thủ chính là Trung Quốc ». Dư luận Trung Quốc: Lo Trump ve vãn Putin để « tách Matxcơva khỏi Bắc Kinh » Các hoạt động ngoại giao dồn dập của tổng thống Mỹ nhằm nhanh chóng tái lập quan hệ với chế độ Putin và chấm dứt xung đột Ukraina gây lo ngại tại Trung Quốc. Ông Kim Xán Vinh (Jin Canrong), giáo sư về quan hệ quốc tế Đại học Nhân dân (Bắc Kinh), trên WeChat hôm 18/02, nhận định : việc Trump ve vãn Nga « chắc chắn để tập trung vào chúng ta ». Chuyên gia về quan hệ quốc tế Trung Quốc tỏ ra có phần bi quan khi thừa nhận Trump là « tổng thống thân Nga nhất trong lịch sử nước Mỹ » và quan hệ Trung - Nga « trong những năm tới có thể sẽ ít nồng ấm hơn » ( tuần san Pháp Courrier International trích dẫn ). Cựu tổng biên tập Hoàn Cầu Thời Báo Hồ Tích Tiến (Hu Xijian) cũng nhìn thấy trong các diễn biến này mưu đồ của Mỹ « đưa Nga trở lại với phương Tây ». Trong một phân tích khác, đăng tải trên mạng WeChat hôm 16/02, cây bút Vương Minh Nguyên (Wang Mingyuan), thường bình luận cho các tờ báo lớn của Trung Quốc, thậm chí cho rằng « trong thâm sâu của văn hóa Nga, phần chống Trung Quốc Quốc vẫn trội hơn phần thân Trung Quốc », việc Matxcơva « hữu nghị với Trung Quốc chỉ là một lựa chọn mang tính thời điểm và trong hoàn cảnh bó buộc », bởi « đa số dân Nga không chấp nhận Trung Quốc là một cường quốc thế giới ». Theo Liên Hợp Tảo Báo (Lianhe Zaobao), nhật báo tiếng Hoa hàng đầu tại Singapore, việc chính quyền Trump trực tiếp thương lượng với điện Kremlin về Ukraina khiến Matxcơva xa rời Bắc Kinh, cô lập Trung Quốc hơn, giảm bớt các lá bài của Bắc Kinh trong các đàm phán với Washington, bởi cho đến nay, Trung Quốc vẫn tỏ ra là « bên trung gian » tìm giải pháp cho xung đột Nga – Ukraina. Việc Mỹ - Nga cải thiện quan hệ sẽ « đảo lộn » tình thế, củng cố vị thế của Mỹ trong cạnh tranh với Trung Quốc và việc chấm dứt chiến tranh Nga – Ukraina giúp Mỹ tập trung năng lực để đối đầu với Bắc Kinh. Đòn phép ngoại giao thăm dò Dĩ nhiên, Trung Quốc sẽ không cho phép Mỹ dễ dàng làm như vậy. Ông Chu Phong (Zhu Feng), hiệu trưởng Trường Quan hệ Quốc tế, Đại học Nam Kinh, được coi là một chuyên gia hàng đầu về quan hệ Mỹ - Nga ở Trung Quốc, trong cuộc trả lời phỏng vấn báo Pengpai (The Paper), Thượng Hải, một mặt kêu gọi cảnh giác về nguy cơ này nhưng nhấn mạnh việc chính quyền Trump tin là « khi hy sinh các lợi ích của Ukraina và châu Âu » có thể liên kết được với Nga để « cùng chống lại Trung Quốc » đã « đánh giá thấp sức mạnh của ngoại giao Trung Quốc ». Bắc Kinh, vốn liên tục bị phương Tây cáo buộc tích cực hỗ trợ Nga trong cuộc xâm lăng Ukraina, giúp Matxcơva lách các trừng phạt phương Tây, dường như không muốn bị gạt ra bên lề trong cơ hội được coi là có thể dẫn đến hòa bình. Theo báo Mỹ The Wall Street Journal, Bắc Kinh dường như đã đề nghị đứng ra đăng cai tổ chức thượng đỉnh Mỹ - Nga. Nhà Trắng từ chối cho biết đã nhận được đề xuất của Trung Quốc hay không, nhưng một quan chức Mỹ, được The Wall Street Journal trích dẫn, khẳng định đề xuất này « hoàn toàn không khả thi ». Mỹ và Trung Quốc đều cần Nga để thống trị thế giới Chuyên gia về an ninh quốc phòng Jean-Claude Allard , thuộc Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp (IRIS), trong một bài phân tích đăng tải ngày 17/02, tức ít ngày sau cơn « Ác mộng Munich » và cuộc điện thoại Trump – Putin, đảo chiều 180 độ quan hệ Nga – Mỹ, ghi nhận việc Mỹ và Trung Quốc, hai đối thủ chính trên bàn cờ quốc tế hiện nay, « đều cần đến Nga », để khẳng định vị thế thống trị thế giới trong thế kỷ này, và có thể cả cho những thế kỷ sau. Chuyên gia Pháp Jean-Claude Allard trước mắt ghi nhận « tham vọng hóa giải các thách thức của Trump và nhóm cầm quyền tại Mỹ » trong việc xác định lại quan hệ với Matxcơva, bởi việc « thay đổi một cách căn bản chính sách với Nga » (un aggiornamento stratégique américain) là cần thiết để thực hiện mục tiêu này. Tuy nhiên, nỗ lực sớm khép lại chiến tranh Ukraina nhờ các nhân nhượng đáng kể cho Nga của Trump có thành công hay không nếu không nhận được hậu thuẫn đủ mức từ phía các nước châu Âu, lo ngại bị Nga thôn tính, một khi Matxcơva thành công trong cuộc xâm lược Ukraina ? Trump hướng đến « trật tự thế giới mới » nào ? Tuy nhiên, vấn đề cũng còn là Bắc Kinh sẽ phản ứng ra sao ? Nỗ lực siết chặt hơn nữa quan hệ với Nga, để « kéo Matxcơva dấn sâu hơn vào vòng ảnh hưởng về kinh tế, tài chính và an ninh » của Trung Quốc để cạnh tranh lại ảnh hưởng của Mỹ, hay thận trọng chờ đợi các diễn biến, bởi « nhiệm kỳ 4 năm cầm quyền » của Donald Trump ắt là « quá ngắn trong cái nhìn của một đế chế có tuổi đời nhiều thiên niên kỷ và của một chế độ cộng sản gần một thế kỷ » ? Nhưng cũng cần đặt cuộc đại xoay trục sang khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, mà chính quyền Trump đang trù tính đẩy mạnh, trong sự hình thành một « trật tự thế giới mới ». Trật tự thế giới, do phương Tây lập nền móng, toàn thắng kể từ sau khi khối Liên Xô sụp đổ, đang đứng trước bờ vực tan vỡ. Tìm được cách thức chấm dứt xung đột Nga – Ukraina không chỉ giúp cho chính quyền Mỹ xoay sang đối đầu với đối thủ chính là Trung Quốc. Kết cục của cuộc chiến tranh Ukraina cũng cho thấy hướng đi của thế giới đương đại. « Trật tự thế giới mới » sẽ ra sao, nếu những gì hợp lý và được coi là tốt của thế giới hiện hành bị chôn vùi nhân danh lý tưởng về một trật tự thế giới hoàn toàn mới ?…

1 Giorgia Meloni : Cầu nối giữa châu Âu và Hoa Kỳ ? 8:44
8:44
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked8:44
Kể từ ngày trở lại Nhà Trắng, những tuyên bố và việc làm của tổng thống Mỹ Donald Trump khiến nhiều nước e ngại. Cuộc điện thoại nảy lửa giữa Trump và thủ tướng Đan Mạch Mette Frederiksen gây sốc đến nỗi bà đã nhanh chóng thực hiện chuyến công du châu Âu để củng cố sự ủng hộ từ Berlin, Bruxelles và Paris nhằm chống lại ý đồ muốn kiểm soát Groenland của Washington. Vậy liệu Tổng thống Donald Trump có thực sự lắng nghe không ? Hay có ai đó ở châu Âu làm cho ông lắng nghe ? Hay có ai đó có thể « diễn giải » nền chính trị của khối này cho tổng thống Hoa Kỳ ? Linh mục Phạm Hoàng Dũng, từ Liège, Bỉ, có bài nhận định. Meloni : Lãnh đạo EU duy nhất được mời dự lễ nhậm chức của D.Trump Theo trang Politico, một trong những ứng viên sáng giá nhất lúc này có lẽ là thủ tướng Ý Giorgia Meloni. Trước khi là nhà lãnh đạo thành viên Liên Hiệp Châu Âu (EU) duy nhất được mời tham dự lễ nhậm chức tổng thống Mỹ của Donald Trump vào ngày 20/01/2025, Giorgia Meloni đã được tỷ phú công nghệ Elon Musk tạo điều kiện gặp nhà lãnh đạo đảng Cộng Hòa trong một cuộc họp, bên lề lễ mở cửa trở lại Nhà thờ Đức Bà Paris vào tháng 12/2024. Tiếp đến, vào đầu tháng Giêng 2025, bà đã có một cuộc họp riêng tại dinh thự Mar-a-Lago của Trump ở Florida. Sau đó ông Trump gọi Meloni là « một người phụ nữ tuyệt vời » và mang lại cho bà một chiến thắng trong nước bằng cách giúp bà đàm phán việc thả con tin ở Iran. Việc Trump sẵn sàng gặp trực tiếp Meloni khiến bà trở thành một trong những nhà lãnh đạo châu Âu có quyền tiếp cận cao nhất so với các nhà lãnh đạo châu Âu khác như tổng thống Pháp Emmanuel Macron hay cựu thủ tướng Đức Olaf Scholz. Điều đáng chú ý khác là ngoại trưởng của thủ tướng Meloni là một trong bốn bộ trưởng EU duy nhất đã nói chuyện với tân ngoại trưởng Marco Rubio kể từ ngày 20/01/2025. Tuy nhiên, vẫn chưa biết mối quan hệ của Meloni sâu sắc đến mức nào. Vì bà cũng từng duy trì mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền tiền nhiệm Joe Biden trước khi Trump giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, một điểm mà chính phủ tổng thống Trump cũng có thể chống lại bà. Một điểm đen khác là chi tiêu quốc phòng của Ý, hiện đang dưới ngưỡng 2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và sẽ còn giảm trong năm 2025 này, và còn lâu mới đạt được mục tiêu mong muốn của Trump là 5% GDP đối với các nước châu Âu. Cuối cùng, sự thân thiết của Meloni với tỉ phú Musk có thể trở thành bất lợi nếu ông trùm công nghệ đột nhiên mất đi ảnh hưởng với Trump. Mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền Joe Biden Lên nắm quyền vào tháng 10/2022, vào thời điểm triển vọng quân sự của Ukraina đang tốt hơn, bà đã không chỉ tuyên bố và còn có hành động ủng hộ không ngừng đối với Kiev, nên bà giành được sự tin tưởng của Hoa Kỳ và tổng thống Joe Biden về điểm này. Bà Meloni cũng liên tục nhấn mạnh mối quan hệ tuyệt vời giữa bà và chủ tịch Ủy ban châu Âu, Ursula von der Leyen. Khi chăm lo cho mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương và trấn an Bruxelles, trong thuật ngữ chính trị của Ý, điều này có nghĩa là tôn trọng « mối ràng buộc bên ngoài ». Bà Meloni, người ca ngợi khả năng lãnh đạo của ông Trump, sau hai lần gặp gỡ trong thời gian từ lúc thắng cử cho đến lúc nhậm chức. Tổng thống Hoa Kỳ đã nhận diện rõ ràng hơn vai trò của bà. Hơn nữa, thủ tướng Ý còn đã thiết lập được mối quan hệ cá nhân và đặc quyền với nhà tài phiệt Elon Musk, người mà trong mắt bà là một « thiên tài quý giá ». Theo Allan Kaval, hai cuộc gặp, ở Washington và tại Mar-a-Lago, tư dinh của ông Trump ở Florida, như hai biểu tượng mà bà Giorgia Meloni tận dụng một mặt để bảo vệ lợi ích của châu Âu và đóng vai trò lãnh đạo lục địa trong khi Pháp và Đức suy yếu; mặt khác, vun đắp cho mối quan hệ song phương duy nhất giữa Roma và Washington và biến Ý thành đầu tàu ở Tây Âu nơi chủ nghĩa dân tộc đang lên và được « người bạn » Elon Musk ủng hộ từ Luân Đôn cho đến Berlin. Tình bạn với Elon Musk Trước khi lên nắm quyền, Giorgia Meloni vốn bị chính trường Ý đánh giá theo đường lối bảo thủ đi bên lề với khuynh hướng chính trị của nước Ý theo con đường châu Âu chống chủ nghĩa hiện đại. Nhưng vào năm 2023, bà đã chào đón một tỷ phú theo chủ nghĩa siêu nhân với các công ty tiên phong trong nhiều lĩnh vực mới, từ không gian đến cấy ghép thần kinh, bao gồm luôn cả xe ô tô điện. Hai con người có khuynh hướng đối lập, nhưng Giorgia Meloni và Elon Musk lại có nhiều điểm chung. Bà đã có mặt trong buổi phỏng vấn Elon Musk với phóng viên, Nicola Porro của nhật báo theo cánh hữu, Il Giornale . Và đã chứng kiến E. Musk lên án những nhà môi trường phải chịu trách nhiệm cho « sự mất hy vọng » trong tương lai, nạn nhập cư bất hợp pháp, sự chuyên chế của tính chính trị đúng đắn của một châu Âu quá quan liêu và chuẩn mực. Nỗi ám ảnh của Elon Musk về việc sinh sản cũng đã gặp được người chia sẻ khi thủ tướng Ý đang phải tìm kiếm giải pháp cho vấn đề suy giảm và dân số ngày càng già nua của nước Ý. Và trên hết, Meloni muốn qua cửa Elon Musk để đến với Donald Trump. Theo Allan Kaval, một trợ lý trẻ của Elon Musk tại Ý, Andrea Stroppa, 30 tuổi, một cựu tin tặc và chuyên gia an ninh kỹ thuật số tự nhận mình là bạn của tỷ phú và đã tham dự tất cả các cuộc họp với Giorgia Meloni, tóm tắt lại vào cuối tháng 9 trong một cuộc phỏng vấn với Nhật báo La Repubblica : « Elon ghi nhận khả năng lãnh đạo của Giorgia Meloni. Và ông nhìn thấy ở bà điều tương tự như ở Donald Trump, một người có thể bảo vệ các giá trị phương Tây đang bị đe dọa . » Cũng theo Stroppa, mối quan hệ giữa Meloni và Musk là « rất tốt ». Mối quan hệ giữa những người bảo thủ Ngày 23 tháng 9 năm 2024 tại New York bà Giorgia Meloni đã nhận Giải thưởng Công dân toàn cầu từ tay Elon Musk, giải thưởng được trao hàng năm bởi Hội đồng Đại Tây Dương – Atlantis Council, một trung tâm nghiên cứu lớn của Mỹ. Một số bức ảnh chụp vào buổi tối đó xuất hiện trên mạng xã hội X của chính E. Musk khiến người ta cho rằng ông có « mối quan hệ lãng mạn » với Giorgia Meloni, người mà ông còn cho là « xinh đẹp cả ở bên trong lẫn bên ngoài . » Tuy nhiên, nếu Giorgia Meloni dễ dàng giành được sự ủng hộ của chính quyền Joe Biden nhờ sự ủng hộ của bà dành cho Ukraine, thì thực ra bà lại thiên về thế giới của Trump hơn là EU. Là người nói tiếng Anh, bà đã cố gắng xây dựng mối quan hệ lâu dài với các nhóm bảo thủ ở Mỹ, mối quan hệ mà bà vẫn duy trì sau khi lên nắm quyền. Mối quan hệ của bà với Elon Musk cũng dựa trên logic này. Mối quan hệ dựa trên các lợi ích kinh tế Theo AFP, ngày 24 tháng giêng 2025, các phương tiện truyền thông của Ý đã đưa tin, anh trai của tỷ phú công nghệ Mỹ Elon Musk là Kimbal đã có cuộc gặp ngắn với thủ tướng Ý tại Roma. Trong cuộc gặp này còn có mặt của bộ trưởng văn hoá Alessandro Giuli. Chính phủ Ý hiện đang đàm phán với SpaceX để thiết lập mạng lưới truyền thông an toàn. Như vậy, bà Meloni đã gửi một tín hiệu khác khi thừa nhận rằng chính phủ Ý và công ty SpaceX của ông Musk đang đàm phán về việc sử dụng thiết bị Starlink để cung cấp thông tin liên lạc vệ tinh được mã hoá dành riêng cho quân đội Ý. Trong khi dự án vệ tinh IRIS của châu Âu vừa được triển khai, bà lại cho thấy rằng bà sẵn sàng phá vỡ mối quan hệ với Liên Hiệp Châu Âu trước lợi ích với Washington. Thoả thuận với SpaceX sẽ gây nguy hiểm cho giấc mơ tự chủ chiến lược của châu Âu. Mối tương đồng nguy hiểm Giorgia Meloni và Elon Musk là những người rất giỏi trong việc dùng các phương tiện truyền thông. Bà Meloni đang tiến hành một cuộc chiến văn hóa chống lại các phương tiện truyền thông, đặc biệt là các phương tiện truyền thông công cộng, được coi là cánh tả. Bà cũng đang xung đột với cơ quan tư pháp vì họ cản trở chính sách di dân của bà. Đây cũng là chủ đề mà sự can thiệp của Elon Musk vào đời sống chính trị của Ý, sau khi ông này viết trên mạng xã hội X của mình rằng các thẩm phán đã hủy bỏ lệnh giam giữ những người di cư tại các trung tâm giam giữ của Ý được thành lập tại Albania phải « ra đi ». Đối với các vấn đề chuyển đổi sinh thái, đây là phần « dễ dàng » trong chiến lược của Meloni. Một mặt, thủ tướng Ý sẽ rộng đường đi theo tổng thống mới của Hoa Kỳ trong các vấn đề chuyển đổi sinh thái, và mặt khác, củng cố yêu cầu Bruxelles chậm lại trong việc áp dụng các quy định mới cho ngành công nghiệp xe hơi và nhà ở. Qua Musk để đến với Trump Tuy nhiên, việc thích nghi lại với chủ nghĩa Trump sẽ phức tạp hơn khi xảy ra xung đột. Chắc chắn nhiệm kỳ tổng thống mới của Hoa Kỳ sẽ không còn liên tục với đường lối mà chính quyền Biden đã áp dụng. Và Roma, giống như tất cả các nguyên thủ và lãnh đạo khác châu Âu, sẽ gặp khó khăn. Đối với hậu quả kinh tế của một giai đoạn bảo hộ mậu dịch mới có thể xảy ra ở Hoa Kỳ, Meloni có kế hoạch bảo vệ chúng bằng lá bài mà bà đã vun đắp trong nhiều năm : Mối quan hệ trực tiếp và cá nhân với Elon Musk. Về quốc phòng, trí tuệ nhân tạo và thậm chí cả lĩnh vực xe hơi, thủ tướng Ý hy vọng sẽ gặt hái được nhiều lợi ích từ mối quan hệ hợp nhất này. Và ở Châu Âu vào lúc này, bà có thể sẽ hành động đáng tin cậy hơn thủ tướng Hungary Viktor Orban, người bạn thân lâu năm của Trump, với vai trò là cầu nối với Washington. Nhưng đây cũng là con dao hai lưỡi, một khi Elon Musk bị đương kim Tổng thống Mỹ cho ra rìa.…

1 Donald Trump và giới tài phiệt công nghệ : Mối đe dọa cho nền dân chủ Mỹ ? 11:43
11:43
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked11:43
Ngày 20/01/2025, hình ảnh những « ông trùm » – những tỷ phú Elon Musk, Mark Zuckerberg, Jeff Bezos cùng các đồng nghiệp – ngồi hàng ghế đầu tại lễ nhậm chức của tổng thống Mỹ Donald Trump đã gây ấn tượng mạnh. Sự kiện cho thấy quyền lực của những người cực kỳ giầu có ở Mỹ, đặc biệt là các nhà tài phiệt của Thung lũng Silicon. Vì sao Trump có được sự ủng hộ từ nhiều nhà tỷ phú công nghệ Mỹ? Liệu mối liên kết Trump và tổ hợp "công nghệ - công nghiệp" có thực sự đe dọa nền dân chủ Mỹ? Trước đó vài ngày, hôm 16/01/2025, tổng thống mãn nhiệm Joe Biden, trong bài phát biểu chia tay với toàn dân, đưa ra cảnh báo nghiêm trọng về sự hình thành một « chế độ tài phiệt » từ điều mà ông gọi là « một tổ hợp công nghệ – công nghiệp » , có thể gây ra « mối nguy hiểm thực sự cho đất nước ». Tuyên bố này của ông Biden gợi nhắc bài phát biểu chia tay của tổng thống Mỹ Eisenhower năm 1961, cũng cảnh báo người dân Mỹ trước mối nguy hiểm về một « tổ hợp công nghiệp – quân sự », mạnh đến mức có thể gây nguy hiểm cho những nền tảng của nền dân chủ Mỹ. Nhưng lịch sử Mỹ cũng từng chứng minh mối quan hệ giữa quyền lực và những người giầu có là một câu chuyện muôn thuở. Giới siêu giầu ở Mỹ luôn có tầm ảnh hưởng trên chính trường kể từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Nay chính trị Mỹ đang bước vào một kỷ nguyên mới với sự xuất hiện của một tầng lớp siêu giầu mới : Những nhà tài phiệt công nghệ của Thung lũng Silicon, giầu có hơn và nhiều quyền lực hơn bao giờ hết. Peter Thiel : « Nhà tiên tri » Tuy nhiên, Gilles Babinet, phó chủ tịch Hội đồng Kỹ thuật số, cố vấn Viện Montaigne về các vấn đề Kỹ thuật số, cho rằng điều đáng lo là, trong « tổ hợp công nghệ - công nghiệp » đó, có những người đã thay đổi lập trường chính trị ngay sau cuộc bầu cử muốn can dự nhiều hơn vào nền chính trị đất nước. Trên đài France Inter, Gilles Babinet phân tích : « Họ tin rằng về cơ bản, cấu trúc chính trị của họ, chủ yếu được quyết định bởi các lợi ích kinh tế là cực kỳ linh hoạt, và vài người trong số họ, với niềm tin sâu sắc, cho rằng một hình thức tinh hoa phải được tạo ra, phần lớn do những người hoạt động trong lĩnh vực công nghệ lãnh đạo và trong số này, Peter Thiel thực sự là một biểu tượng ». Theo quan điểm của nhà báo Thomas Snégaroff, có lẽ đây chính là nhà tài phiệt mà Joe Biden muốn nhắm đến,được mô tả như là một « nhà tiên tri », một nhà trí thức duy nhất, nguy hiểm nhất và có lẽ là quyền lực nhất. Thomas Snégaroff, cũng là nhà sử học, giải thích : « Năm 2009, trong một tập sách nói về giáo dục theo chủ nghĩa tự do cá nhân, ông ấy từng tuyên bố : Tôi không còn tin rằng tự do và dân chủ là tương thích ». Nếu như năm 2009, phát biểu này có vẻ bất thường, thì ngày nay, chúng có vẻ ngày càng đáng tin hơn, điều này nuôi dưỡng giả thuyết của Joe Biden, giả thuyết về ngày tận thế . » (France Inter ngày 30/01/2025) Mang tư tưởng chủ nghĩa tự do cá nhân (Libertarien), Peter Thiel được cho là « nhà tiên tri » bởi vì ông là người đầu tiên thấy Donald Trump là người vén lộ những gì là nước Mỹ thực sự. Tháng Giêng năm 2025, trên Financial Times, ông viết : « Năm 2016, tổng thống Barack Obama từng phát biểu vào thời điểm đó rằng thắng lợi của Donald Trump không hẳn là " ngày tận thế " . Tất nhiên là ông ấy đúng. Nhưng nếu chúng ta xem xét nghĩa gốc của từ " apokálypsis " trong tiếng Hy Lạp, - có nghĩa là " sự tiết lộ " – thì Obama có lẽ sẽ không thể đưa ra lời bảo đảm như thế vào năm 2025 ». Sinh ra tại Đức, nhưng giống như Elon Musk, Peter Thiel lớn lên tại Nam Phi trong suốt thời kỳ chủ nghĩa Apartheid. Ông là hiện thân cho một luồng di dân đánh dấu cho sự tìm kiếm tự do. Là một luật sư, nhưng Peter lại là một nhà đầu tư có ảnh hưởng. Ông là một trong số những người sáng lập Paypal, hệ thống chi trả qua mạng. Peter Thiel cũng là một trong số những người đầu tư vào Facebook, và đổ tiền vào SpaceX của Elon Musk, trở nên giầu có nhờ vào tài « đánh hơi » của mình. Và ông cũng là nhà tài phiệt công nghệ đầu tiên ủng hộ Donald Trump ngay từ năm 2016, theo như giải thích từ nhà báo Philippe Corbé, phóng viên thường trú của France Inter tại Mỹ : « Ông là người đầu tiên trong số những nhà tài phiệt, nhưng không phải là người giàu nhất. Ông ấy thực sự rất giàu, vẫn kém xa Musk, Bezos, Zuckerberg, nhưng ông ấy là người đầu tiên ủng hộ Trump. Và khi ông ấy nói về việc vén bức màn che lên, đó là vì ông ấy đã nói trong nhiều năm rằng những gì Trump đại diện trong xã hội Mỹ, trong chính trị, mà còn trong tinh thần của nước Mỹ ngày nay, đó không chỉ là một tai nạn bầu cử, không chỉ là một kẻ lắm mồm, mà là người có phương pháp khác biệt với những người khác. Về cơ bản, người vén bức màn ở đây theo nghĩa là người đã tiết lộ bản chất thực sự của nước Mỹ. Và nước Mỹ, theo quan điểm của Peter Thiel, không giống như giới tinh hoa mô tả về Thung lũng Silicon, nơi ông đã sống trong một thời gian dài, về Hollywood, nơi ông hiện đang sống, về Phố Wall hay về Washington. Đó có lẽ là một nước Mỹ còn tàn bạo hơn, dựa nhiều hơn vào sự cân bằng quyền lực, luật của kẻ mạnh hơn, và cũng là nước Mỹ ít đúng đắn hơn về chính trị ». Donald Trump : Người vén màn sự thật Tầm nhìn của Thiel là bảo vệ tự do cá nhân, kể cả về giới tính, ở đó, « tự do, tự do cực độ, vượt lên trên cả những cân nhắc về đạo đức hay thể chế ». Ông không ngần ngại công khai về xu hướng đồng tính của mình ngay tại kỳ đại hội đảng Cộng Hòa năm 2016. Cũng trong kỳ đại hội này, Peter Thiel từng bị xem là « điên rồ » khi là người đầu tiên công khai ủng hộ Donald Trump là ứng viên tranh cử tổng thống. Trên diễn đàn năm đó, Thiel giới thiệu Trump như là người tiết lộ « một phần bị che giấu của nước Mỹ » , lên án một « thế lực ngầm » tìm cách giấu giếm sự thật, khi lấy lại khẩu hiệu nổi tiếng : « Sự thật ở nơi khác » . Nghĩa là « có một sự thật mà người ta đang che giấu. Nhà nước Liên bang ở đó, các cơ quan của nhà nước như FBI, CIA hay nhiều cơ quan khác được giao trách nhiệm thao túng quý vị, để ngăn cản quý vị phát hiện ra sự thật. Điều đó cho thấy rõ những gì nằm sâu trong tâm trí người Mỹ, và trong sâu thẳm, đó là một dạng ngờ vực đối với nhà nước liên bang, vốn bị xem như là một quyền lực cản trở tự do cá nhân », theo như giải thích từ nhà báo Philippe Corbé. Cũng theo vị phóng viên thường trực của France Inter tại Mỹ, điều đáng chú ý là hiện có một luồng tư tưởng đang được phe chủ trương tự do cá nhân mà Thiel và Musk hiện thân, cho lan truyền trong cánh hữu Mỹ : Nước Mỹ có lẽ không nên là một nước dân chủ, rằng Mỹ nên là một nền Cộng hòa: « Theo những gì họ nói, nền dân chủ theo nghĩa cuộc chiến cho các giá trị dân chủ, cuộc chiến vì nhân quyền, cuộc chiến cho quyền các nhóm thiểu số, cuộc chiến cho nữ quyền, tất cả những cuộc chiến đó về cơ bản chỉ làm tổn hại đến những gì tạo ra tính hiệu quả, những gì mang lại sự vĩ đại, hay có thể mang đến sự vĩ đại cho nước Mỹ và sự tự do. Ý tưởng nêu ra là những giá trị dân chủ này giống như những hành lý nặng nề cản trở chúng ta chạy nhanh hơn. Họ không nói là muốn có một nền độc tài, họ cũng không nói là cần phải xét lại các giá trị dân chủ đó, nhưng họ bảo rằng " hãy cẩn thận chớ để sự tôn trọng hay bảo vệ các giá trị đó cản trở chúng tôi, không đè nặng chúng tôi đi đến mục tiêu tối cao, đó là có được sự thành công, trở nên quyền lực, và kiếm được nhiều tiền hơn . » Tự do « trá hình » ? Suy cho cùng, đối với nhà sử học và kinh tế gia Arnaud Orain, đó là một chủ nghĩa tự do trá hình. Musk và Thiel coi thường sự cạnh tranh và thị trường tự do. Thiel đã từng nói rằng « cạnh tranh là kẻ thù không đội trời chung của chủ nghĩa tư bản » . Đối với ông, việc tập trung quyền lực và thế độc quyền cho phép người ta có một nguồn tài chính vững chắc, tiến hành đổi mới mà không sợ mất tất cả nhờ những phương tiện không lồ. Trả lời báo Nouvel Obs, sử gia Orain nhận định : « Khi những gã khổng lồ công nghệ này có ý định bãi bỏ quy định, mục đích của họ là để chiếm lĩnh thị trường mới, áp đặt giá cả, củng cố thế độc quyền, chứ không phải để tạo ra đối thủ cạnh tranh. Musk và Thiel phụ thuộc chặt chẽ vào nhà nước và quân đội Mỹ. Nhìn chung, các công ty này đang có diện mạo như những quốc gia có chủ quyền mới. Đây chính là điều Mark Zuckerberg nhấn mạnh khi nói rằng “Facebook trông giống một chính phủ hơn là một công ty truyền thống”. Những gã khổng lồ này kiểm soát các động mạch và tĩnh mạch của thế giới, từ các tuyến cáp ngầm, vệ tinh, tên lửa, cho đến không gian chung cùng với mạng X. Chúng trông giống như các công ty Đông Ấn thế kỷ 17 và 18, tức các công ty vừa mang tính thương mại, vừa mang tính nhà nước . » Tệ hơn, nhà kinh tế học Josep Stiglitz, giải Nobel Kinh tế năm 2001, lên án Musk, Bezos, và Zuckerberg kiểm soát thông tin để phục vụ cho tham vọng độc quyền, một cách thức hoạt động mà ông đánh giá là « tồi tệ hơn » cả những nhà tài phiệt Mỹ đầu thế kỷ 20. Trên France Culture, ông cảnh báo : « Lý do để họ tồi tệ hơn là vì không chỉ liên quan đến vật chất, như xe hơi chẳng hạn, mà còn liên quan đến kiến thức, đến những gì chúng ta tin tưởng. Họ đang cố gắng kiểm soát truyền thông, hệ thống thông tin, cách chúng ta nhìn nhận câu chuyện của mình, xã hội của mình và họ đang tư nhân hóa quyền tuyên truyền chẳng hạn. Chúng ta không muốn tuyên truyền của nhà nước và bây giờ chúng ta đang có một nền tuyên truyền tư nhân hóa . » Tinh hoa chống tinh hoa Sự trỗi dậy của một giới tinh hoa mới ở Mỹ, giới « tinh hoa công nghệ » theo như cách gọi của Gilles Babinet, cũng cho thấy có một sự phân rẽ trong giới tài phiệt tại Thung lũng Silicon. Nhà trí thức Joel Kotkin, cựu thành viên đảng Dân chủ, và giờ là một nhà nghiên cứu độc lập, trả lời phỏng vấn báo Pháp Le Figaro, bác bỏ những nhận định « báo động » cho rằng sự liên kết giữa Donald Trump và tài phiệt công nghệ Mỹ có thể gây nguy hiểm cho nền dân chủ của đất nước. Một mặt, theo ông, thắng lợi bầu cử của Donald Trump là một sự chối bỏ ồ ạt của người dân Mỹ đối với phương thức điều hành của chính quyền Biden, cũng như là cách thức phe cực tả áp đặt thế thống trị của họ đối với các chính sách của Mỹ trong nhiều hồ sơ, từ di dân, giới tính cho đến môi trường. Mặt khác, việc chỉ trích mối liên kết giữa Trump và các nhà tỷ phú công nghệ, đối với ông Joel Kotkin, là một sự giả dối, và không quên nhắc lại tầm ảnh hưởng của Google đối với chính quyền Obama và Biden lớn như thế nào trong thời gian tranh cử, cũng như là sau khi đã lên cầm quyền. Các hãng công nghệ lớn cũng đã từng ủng hộ đảng Dân Chủ trong nhiều năm. Giờ đây, trong bối cảnh cạnh tranh với Trung Quốc, họ chợt nhận ra rằng sẽ khó thể trụ được nếu chính quyền Biden vẫn tồn tại. Sự chia rẽ này có nghĩa là các nhà tài phiệt ở cả hai bên sẽ phải xây dựng liên minh với các nhóm khác ngoài họ. Và đây sẽ là cuộc « đọ sức » giữa hai phe tài phiệt. Ở cánh hữu, phe dân túy, mà đại diện là phó tổng thống JD Vance, sẽ đối đầu với những ông trùm công nghệ như Musk. Theo ông Joel Kotkin, đây sẽ là một tin tốt lành, khi kể từ giờ có hai phe tài phiệt, mỗi phe ủng hộ một đảng, tranh giành lẫn nhau và do vậy sẽ mang lợi cho tầng lớp trung lưu.…

1 Chính sách đối ngoại Trump 2.0: Từ « America First » đến « Hòa bình thông qua sức mạnh » 12:33
12:33
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked12:33
Trong suốt chiến dịch vận động tranh cử và ngay cả sau khi đắc cử, Donald Trump đã cam kết trở lại với chính sách « hòa bình thông qua sức mạnh ». Tuy nhiên, đối diện với những giới hạn thực sự cho quyền lực toàn cầu của Washington, cánh hữu Hoa Kỳ đang phát triển những ý tưởng mới để phục hồi chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Nhiệm kỳ hai của Donald Trump sẽ thử thách chính sách đối ngoại này trong bối cảnh địa chính trị đầy biến động. Trong suốt chiến dịch vận động tranh cử, nhà tỷ phú Mỹ Donald Trump đã chỉ trích gay gắt chính sách đối ngoại của chính quyền đảng Dân Chủ, đả kích tổng thống Joe Biden là « bất tài » và các cố vấn của ông là « những thằng hề » không được bất kỳ ai tôn trọng. Donald Trump cáo buộc rằng chính sự yếu kém của họ đã lôi kéo nước Mỹ vào một cuộc chiến thế giới thứ ba. Ba xu hướng an ninh quốc gia Thay cho khẩu hiệu của Joe Biden là « Nước Mỹ đã trở lại », Donald Trump chọn « Hòa bình thông qua sức mạnh ». Một khẩu hiệu được lấy cảm hứng từ trong lịch sử quân sự thời La Mã Cổ Đại thế kỷ IV với câu châm ngôn nổi tiếng : « Si vis pacem, parabellum », nghĩa là « Nếu muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh ». Theo đó, nhà tỷ phú Mỹ cam kết « một quân đội hùng mạnh » cho nước Mỹ và chấm dứt các cuộc chiến. Nếu như giới quan sát tại Pháp cũng như ở châu Âu dự báo sự trở lại của chủ nghĩa biệt lập Mỹ cùng với những tuyên bố ầm ĩ gây bất ngờ của tân chủ nhân Nhà Trắng, hay nguy cơ Mỹ bỏ rơi các đồng minh, thì theo một nghiên cứu của Hội đồng Đối ngoại châu Âu, chính sách đối ngoại của tổng thống Trump phức tạp hơn nhiều, chứ không đơn thuần mang tính chủ nghĩa biệt lập « Nước Mỹ trên hết ». Cụ thể, trong nội bộ đảng Cộng Hòa có ba nhóm an ninh quốc gia đang cạnh tranh với nhau : « Những người kiềm chế - Restrainers » - phần lớn đặt Nước Mỹ trên hết ; « nhóm chủ trương ưu tiên - Prioritisers » muốn tập trung đối phó với Trung Quốc, và cuối cùng, những người theo « chủ nghĩa bảo thủ - Primacists », vốn dĩ theo trường phái cũ, muốn thể hiện sức mạnh của Mỹ ra toàn thế giới . Nhóm này chiếm một vị trí đáng kể tại Thượng Viện. Hai nhóm đầu tiên có cùng quan điểm là muốn giao phó toàn bộ vấn đề Ukraina cho châu Âu. Điều này giải thích vì sao về nhân sự được Trump bổ nhiệm, có sự không nhất quán trong nhóm cố vấn an ninh quốc gia, theo như ghi nhận từ NPR, đài phát thanh công của Mỹ. Người ta có thể thấy bà Tulsi Gabbard, ứng viên cho chức giám đốc Cơ quan Tình báo Mỹ, chỉ trích mạnh mẽ các hành động quân sự của Mỹ ở bên ngoài lãnh thổ quốc gia, và có thái độ thông cảm với các đối thủ của Hoa Kỳ, bao gồm cả nguyên thủ Nga Vladimir Putin. Nhưng mặt khác, chính quyền Trump II có một tân ngoại trưởng Marco Rubio, cực kỳ diều hâu, chống Nga, Trung Quốc và nhiều nước khác. Trong bối cảnh này, tân tổng thống Mỹ là hiện thân cho một nỗ lực hợp nhất các trào lưu khác nhau trong đảng Cộng Hòa. Trong giới hạn về thời gian, RFI Tiếng Việt xin giới thiệu vào hai xu hướng đầu : « Những người kiềm chế » và « N hóm chủ trương ưu tiên » để giải thích rõ hơn về chính sách đối ngoại « Hòa bình thông qua sức mạnh » của tổng thống Mỹ Donald Trump trong nhiệm kỳ hai. Sức mạnh quân sự Vào năm 2016, khi ra tranh cử tổng thống, Donald Trump nhận thấy có một sự phản đối ngày càng lớn đối với những cuộc chiến không hồi kết trong tầng lớp công nhân Mỹ, cũng như là tình trạng « quá tải » của chính quyền Mỹ do vô số cam kết với quốc tế. Và do vậy, trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên, với lời hứa « Make America Great Again », viết tắt là MAGA, Trump đã thực hiện một chiến dịch bảo hộ mậu dịch, đoạn tuyệt với chính sách đối ngoại đặt cuộc chiến cho « nền dân chủ » làm trọng tâm trong nhiều thập niên, vốn dĩ đã cho phép định hình một trật tự thế giới tư bản đằng sau Hoa Kỳ. Donald Trump lần lượt rút Hoa Kỳ ra khỏi các thỏa thuận quốc tế, các định chế quan trọng của Liên Hiệp Quốc và thậm chí dọa rút khỏi NATO, đồng thời phát động một cuộc chiến thương mại để đối phó với các đối thủ lớn như Trung Quốc. Nay lại trở thành tổng thống thứ 47 của Mỹ, đề nghị rút khỏi cuộc chiến ở Ukraina cho đến tiếp tục cạnh tranh với Trung Quốc, về cơ bản vẫn là điều tương tự. Tuy nhiên, theo các nhà quan sát, trong nhiệm kỳ I, Donald Trump đã không thể giải quyết tất cả các hạn chế của Mỹ. Trước viễn cảnh quyền lực Mỹ bị các siêu cường hay đối thủ khu vực thách thức nghiêm trọng, Trump tiến hành một cuộc chiến kinh tế và có thể sẽ là quân sự. Thực thi áp lực và cưỡng ép đối với các đồng minh cũng như với kẻ thù của Mỹ tiếp tục là nét đặc trưng cho chính sách đối ngoại của chính quyền Trump 2.0. Chiến lược này đã được ông Robert C. O’Brien, cựu cố vấn an ninh quốc gia của Trump, nhiệm kỳ I, vạch rõ trong một bài viết đăng trên tạp chí Mỹ nổi tiếng Foreign Affairs năm 2024, trước khi diễn ra bầu cử. Ông viết : « "Nước Mỹ trên hết không có nghĩa là nước Mỹ đơn độc" là câu thần chú thường được giới chức chính quyền Trump nhắc lại và vì một lý do chính đáng : Trump thừa nhận một chính sách đối ngoại thành công đòi hỏi phải hợp tác với các chính phủ và người dân thân thiện ở những nơi khác. Do vậy, việc ông xem xét lại các quốc gia và nhóm nào thích đáng nhất sẽ không khiến ông trở thành người chỉ biết giao dịch hoặc là người theo chủ nghĩa biệt lập thù địch với các liên minh như những người chỉ trích ông tuyên bố. NATO và hợp tác quân sự của Mỹ với các nước Nhật Bản, Israel, cùng các quốc gia Ả Rập vùng Vịnh đã được tăng cường trong nhiệm kỳ đầu của Donald Trump. Chính sách đối ngoại và chính sách thương mại của Trump có thể được hiểu một cách chính xác như sự phản ứng trước những thiếu sót của chủ nghĩa quốc tế tân tự do, hay chủ nghĩa toàn cầu được tiến hành từ đầu những năm 1990 đến tận năm 2017. Cũng giống như nhiều cử tri Mỹ, ông Trump đã hiểu rằng "tự do thương mại" trên thực tế không phải như thế và trong nhiều trường hợp, nhiều chính phủ nước ngoài đã can dự vào khi sử dụng thuế quan cao, rào cản thương mại và đánh cắp sở hữu trí tuệ gây tổn hại cho lợi ích kinh tế và an ninh của nước Mỹ ». Phá bỏ quy định tăng cường sức mạnh kinh tế Trong bài viết dài này, ông Robert O’Brien còn đi xa hơn khi đưa ra một loạt đề xuất cụ thể để tái tổ chức các nguồn lực của Mỹ, cũng như đảm bảo rằng các đồng minh và đối thủ phải tuân thủ theo các kỳ vọng của Mỹ. Đáng chú ý nhất là đề nghị phân bổ lại các nguồn lực quân sự của Mỹ để tập trung nhiều hơn vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nhằm đối phó với các đối thủ bao gồm Trung Quốc và Iran, đồng thời đe dọa rút hỗ trợ quân sự cho các đồng mình như Đài Loan hay các nước thành viên NATO, trừ phi những nước này đầu tư nhiều hơn cho quân đội. Ngoài ra, để củng cố năng lực quân sự, O’Brien đề xuất một chương trình tái bổ sung kho dự trữ vũ khí của Mỹ, bao gồm tầu sân bay, tầu ngầm, oanh tạc cơ và tên lửa, vốn dĩ đòi hỏi nhiều khoản đầu tư ồ ạt trong các ngành công nghệ chủ chốt, cũng như phải thay đổi toàn bộ quy trình mua sắm trang thiết bị quân đội. Không chỉ có trong quân sự mà Hoa Kỳ phải khôi phục « sức mạnh » kinh tế. Nếu như thuế quan là công cụ để Mỹ gây áp lực với các đối tác và đối phương để có được những nhượng bộ trong trao đổi mậu dịch, thì theo ông O’Brien, những gì Mỹ có thể thực hiện ở bên ngoài còn phụ thuộc vào việc tái thiết năng lực sản xuất quốc gia. Trên Foreign Affairs, ông viết như sau : « Để duy trì lợi thế cạnh tranh trước cuộc tấn công gay gắt này, Hoa Kỳ phải tiếp tục là nơi tốt nhất trên thế giới để đầu tư, đổi mới và kinh doanh. Nhưng thẩm quyền quản lý của nhà nước Mỹ ngày càng tăng, bao gồm cả việc thực thi luật chống độc quyền quá mức, đe dọa phá hủy hệ thống doanh nghiệp tự do của Mỹ. Ngay cả khi các công ty Trung Quốc nhận được sự hỗ trợ không công bằng từ Bắc Kinh nhằm nhấn chìm các công ty Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu lại gây khó khăn khiến những công ty này khó cạnh tranh hơn. Đây là một công thức cho sự suy thoái quốc gia, các chính phủ phương Tây nên bãi bỏ những quy định không cần thiết ». Nói một cách khác, đây là một chính sách tái công nghiệp hóa cho Mỹ bằng cách phá bỏ các quy định bảo vệ người lao động, khi tiến hành cuộc chiến về lương chống lại các nghiệp đoàn và cho phép các doanh nghiệp khai thác tối đa người lao động Mỹ, cũng giống như cách mà những doanh nghiệp này đã trục được lợi qua việc bóc lột lao động Trung Quốc, theo như chỉ trích từ trang Revolution Permanente của Pháp, vốn ủng hộ chủ nghĩa cực tả Trotsky. « Mỹ không thể gánh hết mọi việc » Nếu như học thuyết « hòa bình thông qua sức mạnh » cho rằng những khó khăn chính cản trở Hoa Kỳ tái khẳng định vị thế là do thiếu ý chí thực hiện các hành động đơn phương và đầy rủi ro, những người chủ trương « kềm chế » trong phong trào MAGA lại cho rằng sự can thiệp quân sự tốn kém quá mức của Mỹ trên toàn cầu, chính sách phi công nghiệp hóa, thiếu sự quan tâm đến đầu tư giáo dục hay đến việc làm cho giới công nhân lại là những rào cản lớn nhất cho việc tái thiết uy lực của Mỹ. Phó tổng thống Mỹ J.D Vance là hiện thân cho trào lưu này, chiếm thiểu số tại Mỹ. Ông được xem như là một nhà trí thức hàng đầu trong Tân cánh hữu Mỹ, từng có tuyên bố thẳng thắn : « Hoa Kỳ không thể gánh hết mọi việc ». Theo tầm nhìn của ông, Mỹ nên phối hợp với các đồng minh, nhất là trong hồ sơ Ukraina và Trung Đông, nhưng không quên nhấn mạnh rằng đối thủ quan trọng nhất mà Mỹ phải đối phó là Trung Quốc. Và do vậy, phần quan trọng nhất của chính sách đối ngoại Mỹ là « sức mạnh kinh tế đất nước và sức mạnh người dân trong nước . » Cũng theo J.D. Vance, Trung Quốc giờ đã là một siêu cường kinh tế công nghiệp hùng mạnh nhất thế giới và Mỹ đã sai lầm để cho đối phương lớn nhất « trở thành đối thủ cạnh tranh công nghiệp mạnh nhất ». Phó tổng thống Mỹ J.D. Vance cùng những người ủng hộ sự hạn chế tin rằng nhiệm vụ đầu tiên trong chiến lược khôi phục sức mạnh nước Mỹ là tập trung phát triển năng lực sản xuất công nghiệp và tránh mọi hành động can thiệp ở bên ngoài có thể làm sao lãng đầu tư nhu cầu trong nước. Sự suy thoái của ngành công nghiệp Mỹ thúc đẩy phong trào MAGA, phản đối mạnh mẽ tiếp tục cuộc chiến ở Ukraina. Điều này đã được ông J.D Vance từng trình bày trong Hội nghị An ninh Munich tại Đức hồi tháng 2/2024 với tư cách là khách mời. Ông lập luận như sau : « Thứ nhất, vấn đề Ukraina, theo quan điểm của Mỹ và tôi nghĩ rằng tôi đại diện cho phần lớn công luận Mỹ, là không có kết quả rõ ràng, và về cơ bản, các yếu tố hạn chế sự hỗ trợ của Mỹ dành cho Ukraina không phải là tiền, mà là đạn dược. Hoa Kỳ, châu Âu cũng vậy, không sản xuất đủ đạn dược để duy trì một cuộc chiến tranh ở Đông Âu, một cuộc chiến tranh ở Trung Đông và có khả năng là tình hình nguy cấp ở Đông Á. Do vậy, Mỹ về mặt cơ bản là bị hạn chế. Tôi sẽ cung cấp cho quý vị các thông tin chi tiết cụ thể nhất. Một PAC-3, một loại tên lửa bắn chặn Patriot, Ukraina sử dụng chỉ trong một tháng trong khi Hoa Kỳ mất một năm để sản xuất. Hệ thống tên lửa Patriot chậm tiến độ mất 5 năm, còn đạn pháo 155 ly chậm tiến độ hơn 5 năm. Ở Mỹ, họ đang bàn đến việc tăng sản lượng lên 100 ngàn đạn pháo/tháng từ đây đến cuối năm 2025, trong khi vào lúc này, Nga sản xuất gần 500 ngàn đạn pháo/tháng. Vì vậy, vấn đề đối với Ukraina là Mỹ không thể sản xuất đủ vũ khí, châu Âu cũng không sản xuất đủ vũ khí, và thực tế đó quan trọng hơn nhiều so với ý chí chính trị của Mỹ hay số tiền chúng tôi in ra rồi gởi sang châu Âu . » Bất luận quan điểm khác biệt về Ukraina, thuế quan và tạo việc làm hiện đang được tranh luận ở Mỹ, các nhóm về an ninh quốc gia Mỹ cũng có nhiều điểm đồng thuận để hình thành nên một liên minh, nhất là trên ba điểm chính : Thứ nhất, Trung Quốc là đối thủ chính mà Hoa Kỳ phải đối phó. Thứ hai, tiếp cận chống di dân cao độ là chìa khóa cho tái công nghiệp hóa đất nước. Cuối cùng, Hoa Kỳ có thể thoái lui khỏi Trung Đông bằng cách trao thêm quyền lực cho Israel để nước này đối đầu hung hăng hơn với Iran.…

1 Dùng mạng X cổ vũ cực hữu: "Cánh tay phải" của Trump bị cáo buộc tấn công nền dân chủ châu Âu 9:38
9:38
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked9:38
Cuối năm 2024, đầu năm 2025, chính giới châu Âu đối mặt với một diễn biến chưa từng có. Tỉ phú Mỹ Elon Musk, người đã đóng góp nhiều cho chiến thắng của Donald Trump và dự kiến đảm nhiệm vị trí quan trọng trong tân chính quyền Mỹ, liên tục cổ vũ nhiều đảng cực hữu châu Âu, trực tiếp đả kích chính phủ các nước châu Âu như Đức, Anh, Tây Ban Nha. Hàng loạt tiếng nói trong chính giới châu Âu tố cáo Musk sử dụng mạng X để tung « tin giả », gieo rắc thù hận, thao túng công luận, tấn công nền dân chủ châu Âu. Các hành động của Elon Musk nhằm những mục đích gì ? Châu Âu có khả năng đáp trả ra sao ? *** Trong những ngày đầu năm 2025, tỉ phú Mỹ, chủ nhân mạng X, cáo buộc thủ tướng Anh Keir Starmer, thuộc Công Đảng, đã « đồng lõa » với mạng lưới tội phạm lạm dụng tình dục trẻ em, khi ông là lãnh đạo cơ quan công tố Hoàng gia. Elon Musk đòi bỏ tù nữ bộ trưởng Anh Jess Phillips, bị cáo buộc « phạm tội mang tính diệt chủng » đối với trẻ em gái Anh. Thủ tướng Starmer đã phải lên tiếng tố cáo Musk bóp méo thông tin để phục vụ lợi ích cá nhân, khi nữ bộ trưởng bị đe dọa tính mạng. Đọc thêm Vì sao Elon Musk công kích dữ dội thủ tướng Anh ? Nước Đức là mục tiêu khác của Musk. Trong những ngày cuối năm 2024, tỉ phú Mỹ liên tục lên án thủ tướng Olaf Scholz và tổng thống Đức Walter Steinmeier là « bất tài », « độc tài », khẳng định đảng cực hữu AfD là lối thoát cho nước Đức, đang « bên bờ vực sụp đổ về kinh tế và văn hóa » . Can thiệp bầu cử: N ắn gân Liên Âu trước khi Trump nhậm chức Trong cả hai trường hợp Đức và Anh, mục đích trực tiếp của Elon Musk là tác động đến tiến trình bầu cử, cổ vũ cho các đảng cực hữu tại hai nước này. Tỉ phú Mỹ quyết định ủng hộ Tommy Robinson, một chính trị gia cực hữu Anh hiện đang ngồi tù vì bất tuân lệnh tòa án không cho phép lặp lại các lời lẽ sỉ nhục nhắm vào một người tị nạn. Tommy Robinson cũng là người sáng lập một băng nhóm chủ trương các hành động bạo lực chống người nhập cư, người Hồi Giáo tại Anh. Ngày 06/01, Musk tung lên mạng X câu hỏi : « Nước Mỹ có nên giải phóng người dân Anh khỏi chính quyền tàn bạo của nước này ? ». Ngày 09/01, Musk có cuộc thảo luận trên mạng X với lãnh đạo đảng cực hữu Đức Alice Weidel, ít tuần trước cuộc bầu cử Quốc Hội trước thời hạn tại quốc gia trụ cột của Liên Âu. Đọc thêm Chia rẽ, vu khống, tin giả: Năm 2025 và những thách thức lớn với các nền dân chủ Nhà báo Pierre Haski, phụ trách mục Địa-chính trị của tuần báo Le Nouvel Obs, hiện là chủ tịch hiệp hội Phóng viên Không biên giới, trên đài truyền hình Pháp Public Sénat, ghi nhận hành xử mang tính hệ thống của Elon Musk : « Thoạt tiên, mọi người tưởng đây chỉ là một đòn gây ấn tượng, nhưng sau đó, Musk đã lặp lại cùng một hành động chống lại thủ tướng Anh Keir Sta r mer, và ủng hộ đảng cực hữu Reform UK. Khi lãnh đạo đảng cực hữu Reform UK không chấp nhận đi theo, Musk yêu cầu thay thế nhà lãnh đạo này. Báo Anh Financial Times có bài ‘‘Musk tìm cách lật đổ Sta r mer trước cuộc bầu cử lần tới’’. Rõ ràng là chúng ta không phải đang đứng trước một biến cố bất thường, với riêng đảng cực hữu AfD Đức. Chúng ta đứng trước một nỗ lực triệt để ủng hộ các đảng chống hệ thống tại châu Âu, hoặc nói chung là các đảng phái đi theo chủ trương bài châu Âu giống với Musk. Reform UK chính là đảng đã cổ vũ cho việc Anh rời khỏi Liên Hiệp Châu Âu. AfD là đảng thân chế độ Putin, chống Bruxelles. Đảng này cực đoan đến mức mà ngay cả lãnh đạo đảng cực hữu Pháp RN Marine Le Pen cũng không chấp nhận cho tham gia vào nhóm nghị sĩ của RN ở Nghị Viện Châu Âu . » Loạt tấn công của Elon Musk đã bị tổng thống Pháp Emmanuel Macron lên án là nằm trong chiến lược của một « International réactionnaire » (Liên minh quốc tế các thế lực phản động). Thủ tướng Tây Ban Nha Pedro Sánchez, trong phát biểu tại lễ kỉ niệm 50 năm ngày qua đời của nhà độc tài Franco hôm 08/01/2025, đã cực lực chỉ trích ông Musk: « Liên minh Quốc tế các thế lực phản động, như tổng thống Macron đã nói cách đây ít ngày, hay liên minh các thế lực siêu cực hữu, mà chúng tôi đã liên tục lên án từ nhiều năm nay tại Tây Ban Nha, do người giầu nhất hành tinh đứng đầu, đã trực tiếp tấn công vào các định chế của chúng ta, kích động hận thù, công khai kêu gọi ủng hộ các thế lực hậu thân của chủ nghĩa phát xít Đức trong cuộc bầu cử Quốc Hội sắp diễn ra tại nền kinh tế số một của châu Âu . » Chế độ « gia đình trị » t ấn công Nhà nước Pháp quyền: Cuộc đọ sức giữa 2 mô hình ? Đối với nhà báo Pierre Haski, liên minh Musk – Trump có kẻ thù chung là « chủ nghĩa đa phương quốc tế ». Châu Âu là mục tiêu « triệt hạ » bởi vì xã hội châu Âu dựa trên luật pháp, không chấp nhận tham vọng tái lập « uy quyền tuyệt đối » của nước Mỹ theo tư tưởng Trump: « Chúng ta có liên minh giữa Trump và Elon Musk – người muốn tái lập uy quyền tuyệt đối của nước Mỹ, chống lại chủ nghĩa đa phương. Musk căm ghét chủ nghĩa đa phương, tức là quản lý tập thể các vấn đề của thế giới, với Liên Hiệp Quốc, với các tổ chức chuyên trách. Các tập đoàn công nghệ muốn ít quy định hơn, muốn ít trở ngại hơn đối với các hoạt động của họ. Có sự liên kết giữa hai thế lực , quyền lực chính trị với quyền lực kinh tế - công nghệ, như trong thế giới hiện tại. Trọng tâm của chủ nghĩa tư bản hiện nay đang chuyển dịch về phía họ. Châu Âu là một cản lực, bởi châu Âu được xây dựng dựa trên luật pháp, dựa trên các quy tắc. Trong con mắt của họ, cản lực này cần phải bị triệt hạ . » Musk và Trump hứa hẹn nhiều thay đổi lớn, nhưng theo nhà chính trị học, chuyên gia về địa chính trị và công nghệ Asma Mhalla , mục tiêu của cặp bài trùng này là xây dựng một chế độ « gia đình trị », bất chấp luật pháp. Trong một cuộc tọa đàm trên đài France Inter, thành viên LAP - Trung tâm nghiên cứu Nhân học Địa-Chính trị của l'EHESS/CNRS - nhận định : « Những lời hứa hẹn của họ đối với chúng ta, đó là sự thay đổi cách mạng, là sự đoạn tuyệt với quá khứ. Trên thực tế, họ hoàn toàn không phải là như vậy. Ngược lại, họ chính là sự tiếp nối của những gì sai lạc của xã hội chúng ta. Cái mà họ đưa ra hoàn toàn không phải là tự do, cho dù là tự do tuyệt đối hay không. Hoàn toàn không phải như vậy, mà thực chất là : Các vị thích đi theo ông chủ nào ? Bộ máy cầm quyền nào ? Bộ máy của họ hay bộ máy trước đó ? Đây h oàn toàn không phải là mang lại một cái mới, mà là cùng một cơ chế, nhưng đã trở nên tồi tệ hơn. Tôi tin rằng, với Trump và Musk, chúng ta đang chuyển từ một Nhà nước pháp quyền của nền dân chủ phương Tây – dĩ nhiên với rất nhiều khuyết tật, với những lệch lạc méo mó đáng bị lên án… đặc biệt là từ đại dịch Covid - sang một chế độ chính trị rất khác, một chế độ ‘‘hậu - pháp quyền’’, tức một chế độ gia đình trị, chế độ của cánh hẩu, với một luận điệu cực kỳ nguy hiểm. Chế độ đó là: Nếu đi với ta, các người sẽ được hưởng lợi, nếu chống lại ta, các người sẽ bị trấn áp ! » . Hướng đến một xã hội bất cần « sự thật » … Để áp đặt một chế độ chính trị kiểu như vậy, cần phải thao túng được công luận. Chuyên gia về địa-chính trị và công nghệ Asma Mhalla chú ý đến việc những người chủ trương quan điểm này hướng đến một hệ thống tuyên truyền phủ nhận ý nghĩa của « sự thật », thái độ tôn trọng các sự kiện - vốn là nền tảng căn bản của một nhà nước pháp quyền, của chế độ dân chủ : « Tôi nhớ lại nhà báo Katharine Viner, trưởng ban biên tập The Guardian, hồi năm 2016, đã sử dụng khái niệm ‘‘Hậu - sự thật’’ (post - truth). Đây chính là cái mà họ tiếp tục theo đuổi hiện nay. Chính sách ‘‘Hậu-sự thật’’ đi liền với phổ biến những điều dối trá. Tất cả các kỹ thuật dối trá mà họ sử dụng - dù là fake news (tin giả), deepfake (tin giả với trợ giúp kỹ thuật số - trí thông minh nhân tạo), tin đồn hay thông tin tách khỏi bối cảnh… - tất cả đều là những chiến thuật bao vây, nhằm nhào nặn nhận thức của con người, nhằm thao túng công luận và các phương tiện truyền thông. Họ không còn quan tâm đến vấn đề ‘‘sự thật’’, hay chính xác hơn là ‘‘tiến trình xác định sự thật’’ (régime de vérité) nữa . Đọc thêm Mạng truyền thông QAnon, ‘‘đồng minh’’ trong bóng tối của Trump Trong khi đó, v iệc kiểm tra tính chất chân thực của các sự kiện, được thuật lại trên truyền thông, lại chính là điều cần phải tiếp tục được thực hiện, bởi đây chính là một tiêu chuẩn, khẳng định sự tồn tại của nền dân chủ chúng ta. Tính chân thực của sự kiện, dựa trên các d ữ liệu, cho phép Nhà nước pháp quyền vận hành được, ví dụ như trong trường hợp có các khiếu kiện, khiếu nại... » … Từ « mạng xã hội mở » trở t hành cỗ máy tung tin giả, tuyên truyền cho Trump Theo nhiều nhà quan sát, mạng xã hội Twitter, được Musk mua lại với 44 tỉ đô la cuối năm 2022, đã được sử dụng để phục vụ mục tiêu này. Năm 2024, mạng X (tên gọi mới của Twitter) có hơn 400 triệu người dùng, trong đó gần một phần tư là dân Mỹ. Hơn 200 triệu người theo dõi Musk trên X. Tháng 7/2024, Musk chính thức ủng hộ Trump. Trong thời gian 5 tháng trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, các thông điệp của Musk trên X được hơn 130 tỉ lượt người xem, nhiều gấp 15 lần Trump. Theo điều tra của Center for Countering Digital Hate – CCDH (Trung tâm chống hận thù kỹ thuật số), trụ sở tại Anh, được công bố hồi tháng 11/2024, chủ nhân X trong năm 2024 đã công bố 87 thông điệp về bầu cử Mỹ, bị những người kiểm tra tin giả xác định là sai lạc. 87 thông điệp của Musk, vẫn được đăng tải trên X, thu hút 2 tỷ lượt xem. Khi tiếp quản mạng xã hội X, Musk xác lập « Community Notes » (các báo động của cộng đồng người sử dụng), thay cho tính năng « Birdwatch », về danh nghĩa là để phát hiện tin giả, thay vì nhờ đến dịch vụ thẩm định bên ngoài. Tuy nhiên, theo một khảo sát của CCDH, có đến hơn 70% thông tin sai lạc về bầu cử Mỹ được đăng tải mà không đi kèm với « báo động của cộng đồng ». Và ngay cả khi có « báo động của cộng đồng », các tin giả, tin sai lạc thu hút số người xem đông gấp 13 lần các « báo động của cộng đồng » đi kèm. Nhiều tài khoản tung tin giả, thuyết âm mưu, bị đóng cửa dưới thời Twitter, nay được Musk cho trở lại. Tung hô « t ự do ngôn luận tuyệt đối » và đè bẹp các quan điểm khác X dưới quyền của kiểm soát của Musk đã trở thành một kênh tung tin giả, vận động tranh cử cho Donal Trump. Một nhóm phóng viên điều tra chuyên mục « L'Œil du 20 Heures » của đài Pháp France Info mới đây đã thử mở một tài khoản trên mạng X và đã chứng kiến thực tế là tài khoản này ngay lập tức bị hút vào quỹ đạo thông tin do chủ nhân mạng X, Elon Musk, chủ trương. Tài khoản mới lập, của phóng viên France Info, được mời theo dõi các doanh nghiệp của Musk, theo dõi tài khoản của Trump. Về mặt chính thức, tỉ phú Elon Musk cổ vũ « tự do ngôn luận tuyệt đối », đặc biệt là tự do trên mạng X, lên án chính quyền nhiều nước châu Âu kiểm duyệt, đàn áp tự do ngôn luận. Trên thực tế, X bị cáo buộc đã sử dụng « các thuật toán » giúp cho các quan điểm mà Musk ủng hộ trở nên áp đảo trên mạng này. Hai nhà nghiên cứu Laurence Grondin-Robillard và Nadia Seraiocco, Đại học Québec (Canada), trong bài « De Twitter à X : Comment Elon Musk façonne la conversation politique américaine » (tạm dịch là : Từ Twitter đến X : Elon Musk nhào nặn đối thoại chính trị Mỹ như thế nào), đã tố cáo mạng X của Musk từ bỏ chính sách « minh bạch về thuật toán » của Twitter một thời trước đây, cho phép người sử dụng lựa chọn giữa « các thông tin theo trật tự thời gian hoặc các thông điệp được nhiều người coi nhất ». Giờ đây các thuật toán - quyết định sự hiện diện của thông tin trên dòng sự kiện của người sử dụng - trở thành « hộp đen » đối với các nhà quan sát. Đạo luật DSA bảo vệ đa nguyên chính trị : Phương tiện tự vệ chính của Liên Âu Bài « L ’interférence d’Elon Musk dans les élections en Allemagne : quel rôle pour le Digital Services Act ? » (Can thiệp của Elon Musk vào bầu cử ở Đức : Luật về Dịch vụ Kỹ thuật Số của châu Âu có vai trò gì ?), trên trang mạng Le Club des Juristes, nêu bật khả năng chính quyền châu Âu sử dụng Luật về Dịch vụ Kỹ thuật Số DSA, có hiệu lực từ năm 2023 (sau ba năm chuẩn bị), để chấn chỉnh các mạng xã hội nằm trong phạm vi điều chỉnh của đạo luật này. Trong số khoảng 10.000 nền tảng trên mạng đang hoạt động tại thị trường châu Âu, chỉ có hơn 20 nền tảng là đối tượng của DSA ( theo Touteleurope.eu ). Ngoài X, còn có 16 nền tảng « rất lớn » khác, với hơn 45 triệu người sử dụng, chiếm 10% dân số châu Âu (như Alibaba AliExpress, Amazon Store, Apple AppStore, Facebook, Google Play, Instagram, TikTok, Wikipedia, Youtube…) và hai công cụ tìm kiếm Bing và Google Search. DSA không chỉ loại trừ các thông tin « bất hợp pháp », ngăn ngừa các thông tin « có hại » phổ biến rộng rãi (tin giả, tin bóp méo…), mà còn bảo vệ đa nguyên chính trị trên truyền thông. Theo đạo luật này, các nền tảng mạng xã hội « rất lớn » như X có nghĩa vụ bảo đảm cho người sử dụng « có thể lựa chọn và làm chủ thực sự các luồng thông tin mà họ cần, đồng thời tôn trọng sự đa dạng và tính đa nguyên về quan điểm với tư cách phương tiện truyền thông » (điều khoản 35, đoạn 3 của DSA). Theo tác giả bài viết trên Le Club des Juristes, giáo sư luật công Anastasia Iliopoulou-Penot (Đại học Paris II Panthéon-Assas), một số thẩm định ban đầu cho thấy các hệ thống định hướng thông tin của X dường như đã không tuân thủ đòi hỏi này. Không tuân thủ quy định của DSA, mạng xã hội X có thể bị phạt đến 6% doanh thu toàn cầu và thậm chí bị loại khỏi thị trường châu Âu. Bị đẩy vào chân tường, Liên Âu có dám mạnh tay với « cánh tay phải » của Trump ? Giới chuyên gia về kỹ thuật số và chính trị ắt hẳn không quên vụ công ty Anh Cambridge Analytica bị cáo buộc sử dụng thông tin về hàng trăm triệu người dùng Facebook để tác động đến thái độ của cử tri Anh về Brexit (chia tay với Liên Âu) và quyết định bầu cho Donald Trump hồi 2016 của cử tri Mỹ (Bài « Comment Cambridge Analytica est devenue une arme de destruction démocratique massive / Cambridge Analytica đã trở thành một vũ khí hủy diệt hàng loạt với nền dân chủ như thế nào », L'Express , ngày 04/03/2020). Nỗ lực can thiệp vào bầu cử châu Âu của Musk đã quá rõ ràng. Việc chấn chỉnh và thậm chí loại trừ mạng xã hội X của Elon Musk bắt đầu được một số chính trị gia châu Âu đặt ra khẩn thiết. Đọc thêm Khi Facebook không bảo vệ được dữ liệu cá nhân Ngoại trưởng Pháp Jean-Noël Barrot hôm 08/01 cảnh báo nếu Ủy Ban Châu Âu không áp dụng luật đã có để « bảo vệ không gian công », thì Bruxelles phải để các quốc gia thành viên « rảnh tay hành động ». Nghị sĩ châu Âu Aurore Lalucq , hôm 09/01 cho biết đã khiếu nại lên Arcom, cơ quan phụ trách thực thi đạo luật DSA ở cấp độ nước Pháp, đồng thời gửi thư đến Ủy Ban Châu Âu nhấn mạnh phải ngăn chặn X nếu công ty của Elon Musk ngoan cố, để « cứu nguy các nền dân chủ ». Về vấn đề này, nhà nghiên cứu độc lập Ophélie Coelho , chuyên gia về địa chính trị và kỹ thuật số, trong một cuộc tọa đàm trên kênh truyền hình TF1, hoàn toàn không tin vào khả năng Liên Âu có thể ngăn chặn X : « Về mặt kỹ thuật, ở cấp độ châu Âu, hay thậm chí ở quy mô từng nước, chúng ta có thể ngăn chặn hoàn toàn việc tiếp cận với nền tảng X. Ngăn chặn cả việc tiếp cận với X thông qua các phần mềm lách kiểm duyệt VPN. Vấn đề phức tạp hơn, đó là : Các nhà hoạch định chính sách có muốn làm hay không? Về mặt chính trị, và nhất là về mặt địa-chính trị, họ có sẵn sàng gánh lấy những rủi ro, trong bối cảnh căng thẳng, khủng hoảng, chiến tranh như chúng ta biết hiện nay, khi đối đầu với Mỹ hay không? Đối đầu với Hoa Kỳ cũng có nghĩa là ảnh hưởng đến liên minh NATO. Chúng ta vốn rất phuộc vào Mỹ về khí hỏa lỏng. Có rất nhiều thứ cần phải cân nhắc. Về mặt địa - chính trị, theo tôi, họ sẽ không làm ». Trong một số cuộc trả lời báo chí Đức ( Frankfurter Allgemeine Zeitung ) và Phần Lan ( đài phát thanh - truyền hình quốc gia Đài Loan Yln ) tuần lễ thứ hai của tháng 1/2025, phó chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, chính trị gia Phần Lan Henna Virkkunen, phụ trách lĩnh vực Chủ quyền công nghệ, An ninh và Dân Chủ, đã tỏ rõ thái độ cứng rắn với cảnh báo : nếu phạm luật, công ty X sẽ phải « nộp phạt và gánh chịu nhiều trừng phạt đáng kể ». Ngày 24/01, giới chức châu Âu phụ trách kỹ thuật số có sẽ cuộc họp với các lãnh đạo Đức. Việc mạng X của Elon Musk can thiệp bầu cử châu Âu ắt sẽ là chủ đề trọng tâm (công ty của tỉ phú Musk đang bị châu Âu điều tra từ cuối năm 2023, do nghi ngờ vi phạm luật DSA).…

1 Ưu tiên an ninh - quốc phòng : Ba Lan trong nỗi lo sợ Nga thường trực 11:33
11:33
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked11:33
Từ ngày 01/01/2025 đến hết ngày 30/06/2025, Ba Lan đảm nhiệm vai trò chủ tịch luân phiên Liên Hiệp Châu Âu. An ninh của khối sẽ là ưu tiên hàng đầu, bởi vì với cuộc chiến xâm lược Ukraina, Nga lại trở thành một mối đe dọa cho Ba Lan. Sự việc cho thấy rõ mối quan hệ phức tạp giữa Matxcơva và Vacxava vì những vấn đề quá khứ lịch sử, những cạnh tranh chiến lược và địa chính trị tại vùng Đông – Trung Âu. « Chính sách Lịch sử » Tính chất phức tạp trong quan hệ Nga - Ba Lan được giải thích bởi nhiều yếu tố vừa mang tính lịch sử, vừa có tính địa chính trị.Trong một bài viết đăng trên trang Diploweb (ngày 09/03/2014), sau khi khủng hoảng Ukraina bùng nổ với việc Nga xâm chiếm và sáp nhập bất hợp pháp bán đảo Crimée, hai nhà nghiên cứu người Ba Lan thuộc trường đại học Silésie (Katowice, Ba Lan) là Kamil Golas, chuyên gia về không gian hậu Xô Viết và Mateusz Hudzikowski, chuyên ngành Quan hệ Quốc tế, trước hết đã nhấn mạnh rằng « Lịch sử » đóng một vai trò to lớn, thậm chí quyết định, trong chính sách đối ngoại của hai nước, trong đó có mối quan hệ Nga – Ba Lan. Nhiều sự kiện có liên quan trực tiếp đến Nga – được xem như là kẻ thù lâu đời của Ba Lan – hầu như ngự trị rộng rãi trên các mạng truyền thông và đời sống chính trị đất nước. Ba Lan thường xuyên bị đánh giá là một đất nước chỉ nhìn về quá khứ thay vì hướng đến tương lai. Hiện tượng này phổ biến đến mức được gọi là « chính sách lịch sử ». Cái nhìn tiêu cực về Nga là kết quả một lịch sử đế chế và chiếm đóng trong gần ba thế kỷ của Nga. Sách sử Ba Lan luôn nhắc đến những lần đất nước bị tước mất nền độc lập, bị chia để trị bởi ba đế chế Sa hoàng, Áo và Phổ vào thế kỷ XVIII, bởi hiệp ước giữa Stalin và Hitler năm 1939, còn được gọi là Hiệp ước Molotov – Ribbentrop, và đặc biệt là giai đoạn sau Đệ Nhị Thế Chiến, bị lệ thuộc vào Liên Xô và bị áp đặt chủ nghĩa cộng sản (1945 – 1989). Nhìn từ Ba Lan, chế độ Xô Viết sụp đổ năm 1991 thật sự là một phép mầu sau ba thế kỷ dưới mối đe dọa Nga và phụ thuộc vào Matxcơva. Tương tự, tại Nga, quá khứ lịch sử cũng có một tầm quan trọng. Nga luôn nhắc đến giai đoạn từng bị đế chế Ba Lan đô hộ vào thế kỷ XVII. Rồi trong một thời gian dài, Nga đã từng là một siêu cường, và sức mạnh này cần phải được khôi phục. Sự sụp đổ của chế độ cộng sản đối với nhiều người Nga là một thảm họa thực sự cho đất nước. Nhưng ý tưởng khôi phục một « đế chế Nga », dù chỉ là trong các phát biểu của ông Vladimir Putin, các phát biểu tuyên truyền, hay trò chơi tâm lý, lại là điều khiến Ba Lan lo sợ. Thảm họa Smolensk: Một bước rẽ trong quan hệ Nga – Ba Lan Các câu chuyện về xung đột đã trở thành một mặt đời sống chính trị ngày càng không thể thiếu trong suốt hơn một thập kỷ qua ở Ba Lan. Ngay từ năm 2008, sau khi Nga phát động cuộc chiến xâm lược chống Gruzia, tổng thống Ba Lan thời bấy giờ là Lech Kaczynski từng tuyên bố : « Ngày hôm nay là Gruzia, ngày mai là Ukraina, hôm sau nữa sẽ là các nước vùng Baltic, và có thể đến một thời điểm nào đó, sẽ là Ba Lan, đất nước tôi ! ». Tuyên bố này giờ còn mang nặng ý nghĩa khi nhìn vào những gì đang diễn ra tại Ukraina hiện nay, theo như nhận định từ nhà nghiên cứu về quan hệ Pháp – Đức, Paul Maurice, Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI) trên đài truyền hình ARTE : « Không một nước nào lắng nghe Ba Lan cả, bởi vì, đối với Pháp, mối nguy an ninh là ở nơi khác, đến từ phía nam, vùng Sahel ở châu Phi hay từ các nước Bắc Phi. Nhưng Ba Lan đã cho thấy rằng nước này đã đúng về mối họa an ninh đến từ Nga. Điều này đã cho phép Ba Lan chủ động trên nhiều chủ đề ». Có lẽ sự kiện « thảm họa Smolensk » là bước rẽ quan trọng trong quan hệ Nga – Ba Lan. Ngày 10/04/2010, ông Lech Kaczynski, anh trai của Jaroslaw Kaczynski, lãnh đạo đảng PiS – Công lý và Pháp luật – cùng nhiều quan chức chính phủ cao cấp khác, tổng cộng 96 người, đã bỏ mạng trong một tai nạn hàng không tại thành phố Smolensk của Nga khi đến dự lễ tưởng niệm vụ « thảm sát Katyn ». Đây là một tranh chấp lịch sử chưa bao giờ được Nga thừa nhận: 22 ngàn sĩ quan Ba Lan bị Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD) hành quyết theo lệnh của Staline năm 1940. Tai nạn hàng không này cho đến giờ vẫn chưa được làm sáng tỏ, Nga vẫn luôn từ chối giao phần các mảnh vỡ máy bay còn lại cho phía Ba Lan để điều tra. IMBMN : Nút thắt chiến lược cho Ba Lan Điểm thứ hai gây khó khăn cho quan hệ Nga – Ba Lan là giữa hai nước có các lợi ích, các tầm nhìn địa chiến lược và địa chính trị rất khác biệt, thậm chí là đối nghịch. Ba Lan xem việc gia nhập NATO – Liên minh Bắc Đại Tây Dương, là một cơ hội để tăng cường năng lực phòng thủ và hiện đại hóa quân đội. Nhưng đối với Matxcơva, quyết định này của Vacxava là một hành động cản trở Nga thực hiện các tham vọng của mình tại châu lục, do vị trí địa lý chiến lược của nước này tại châu Âu. Trong vấn đề này, yếu tố lịch sử một lần nữa được nhắc đến. Những tham vọng này của Nga thúc đẩy Ba Lan khám phá lại một thực tế chính trị được dựa trên huyền thoại : Nút thắt chiến lược của Dải đất biển Baltic – Hắc Hải (IMBMN). Đây là một dự án chưa kịp hoàn thành, nhằm xây dựng liên minh các nước nằm trên dải đất đi từ biển Baltic đến Hắc Hải (IMBMN), từng được Jozef Pilsudski, Quốc trưởng Đệ Nhị Cộng Hòa Ba Lan (1918-1922) đưa ra sau khi đế chế Sa hoàng sụp đổ năm 1918. Theo dự án, Liên minh các nước vùng biển quy tụ Ba Lan, Litva, Belarus và Ukraina nhằm mục tiêu tăng cường sức mạnh của vùng và để chống Nga. Ông Maciej Bukowski, chuyên gia về an ninh năng lượng, trên trang Le Grand Continent, ngày 18/03/2021, từng giải thích : « Chỉ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, một cường quốc, hiển nhiên là Hoa Kỳ, mới thấy được tầm quan trọng của dải đất đi từ biển Baltic đến Hắc Hải (IMBMN) và dùng chúng để ngăn cản các thế lực thống trị trên bộ mà Liên Xô đã từng có . » Việc Ba Lan trở thành thành viên của NATO và Liên Hiệp Châu Âu đã phần nào giúp thực hiện chiến lược mà Mỹ đề ra sau Đệ Nhị Thế Chiến : Kiểm soát viền hàng hải Á – Âu. Liên Xô sụp đổ, Mỹ đã có thể can dự chính trị vào vùng lãnh thổ IMBMN. Sau khi mở rộng NATO năm 1999 và bất chấp phản đối của Nga, vùng Đông – Trung Âu, đã và vẫn được Mỹ che chở bởi các bảo đảm an ninh, mà phần đông các nước tại IMBMN xem như là một nền tảng trung tâm cho cơ cấu an ninh của vùng. Niềm tin vào năng lực triển khai sức mạnh quân sự Mỹ tại vùng Á – Âu đã cho phép các nước trong vùng IMBMN dành được 30 năm sau cùng để hội nhập với thị trường thế giới cũng như là hội nhập với Liên Âu. Đối với Ba Lan, tiến trình này giúp cho đất nước đạt được một số mục tiêu kinh tế và chính trị được xác định là « không thể thiếu » để có thể đuổi kịp quãng thời gian bị mất dưới thời kỳ cộng sản. A2AD : Đối sách của Nga chống IMBMN Rõ ràng giữa Ba Lan và Nga các lợi ích địa chính trị là không tương thích. Sự phụ thuộc của Vacxava vào Washington, hình thành trong những năm 1990, được thể hiện rõ qua mối quan hệ đồng minh bền vững, dù là bất cân đối. Trong nhãn quan của Mỹ, Ba Lan có vai trò lá chắn hàng đầu chống lại thế mạnh quân sự Nga tại vùng địa lý giáp với IMBMN. Ngược lại, đối với Nga, IMBMN cũng nằm trong vùng triển khai lực lượng quan trọng của nước này. Matxcơva ý thức được rằng bài toán duy trì vị thế cường quốc lớn của đất nước tại châu Âu sẽ phải được giải quyết ở điểm này. Liệu đó có là nguyên nhân để giải thích cho cuộc chiến xâm lược Ukraina hiện nay? Nhìn vào thế trận hiện nay, ngoài Belarus đã nằm trong vòng kềm tỏa của chủ nhân điện Kremlin, quả thật, chỉ còn mỗi Ukraina vẫn chưa hoàn toàn hội nhập vào thế giới phương Tây như hai nước còn lại của IMBMN là Ba Lan và Litva. Trong cuộc đối đầu này, Nga dường như đã có bước đi trước là hoàn thiện các hệ thống chống tiếp cận A2AD, và khôi phục các năng lực chiến tranh đối xứng (nhờ vào chương trình cải cách quân đội của Serdyukov), trong khi Mỹ và NATO mất một thập niên để bắt kịp binh pháp bất cân xứng phổ biến của quân đội Nga. Bức tường chống xâm nhập được Nga thiết lập đi từ phía bắc Biển Baltic và dọc theo sườn phía đông của NATO, của Ukraina, của bán đảo Crimée, Hắc Hải, eo biển Thổ Nhĩ Kỳ cho đến tận đông Địa Trung Hải. Theo ông, Maciej Bukowski, chiến lược này sẽ khiến hải quân Mỹ khó thể triển khai lực lượng một cách hiệu quả trong vùng trong trường hợp xảy ra xung đột giữa một thành viên của NATO và Nga. Ông viết : « Ví dụ, hạm đội Hoa Kỳ có nguy cơ không thể tiến vào Biển Baltic qua eo biển Đan Mạch. Khả năng hỗ trợ Ba Lan và/hoặc các nước vùng Baltic của Hoa Kỳ khi đó sẽ phụ thuộc vào một thỏa thuận với Đức cho phép quân đội Mỹ đi qua lãnh thổ của nước này nếu cần thiết. Nếu không có thỏa thuận như vậy, các lữ đoàn hạng nặng của Mỹ sẽ khó có thể tới được Ba Lan ». Tự chủ quốc phòng là quốc sách ? Trong trường hợp này, NATO khó thể giúp được các quốc gia vùng Baltic, nơi Nga có hệ thống A2AD để bảo vệ và vô hiệu hóa các tuyến đường hàng không và đường biển của liên minh. Điều này có nghĩa là nền độc lập của các quốc gia vùng Baltic phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có vị trí địa lý và chính trị của Ba Lan. Thực tế địa chính trị này đã xác nhận một ý tưởng ngày càng lưu hành phổ biến tại Ba Lan, theo đó, chính quyền Vacxava không những phải củng cố chính sách an ninh được tiến hành song song với Mỹ, mà còn phải phát triển các phương tiện của riêng mình để khẳng định vai trò lãnh đạo của Ba Lan tại vùng IMBMN. Nói một cách khác, Ba Lan phải gia tăng mua sắm và sản xuất vũ khí. Tuy nhiên, ông Paul Maurice, lưu ý, điều này không đồng nghĩa với việc Ba Lan sẽ tự chủ hoàn toàn và độc lập với chiếc ô an ninh của Mỹ : « Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk từng có những lập trường như chúng ta thấy qua các dòng tweet của ông ngay trước khi bầu cử Mỹ kêu gọi tỉnh thức và nhấn mạnh tính cần thiết về sự tự chủ của châu Âu trước nỗi lo Donald Trump trở lại. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông Tusk muốn cắt đứt tất cả các mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương. Ông ấy bám chặt sâu sắc vào mối quan hệ này, bởi vì đó là vấn đề an ninh của Ba Lan. » Hiện Ba Lan là quốc gia duy nhất trong khối NATO dành nhiều ngân sách nhất cho quốc phòng với 4,12% của GDP. Vacxava hy vọng các thể lôi kéo các nước thành viên khác có chính sách tương tự !…

1 Năm 2025 : Donald Trump và chính sách với Nga về hồ sơ Ukraina 9:27
9:27
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked9:27
Năm 2024 vừa khép lại trong một thế giới hỗn loạn. Năm 2025 sẽ mở đầu với sự trở lại ngoạn mục của tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump. Một khi chính thức nhậm chức vào ngày 20/01/2025, ông sẽ phải đưa ra các lựa chọn để thực hiện. Đứng đầu danh sách là mối quan hệ địa chính trị căng thẳng giữa Hoa Kỳ với Nga và Trung Quốc. Đối với Nga, câu hỏi đầu tiên đặt ra là Washington sẽ có mối quan hệ như thế nào với Matxcơva và Vladimir Putin ? Lập trường của Mỹ về Ukraina cũng sẽ bắt đầu từ đây. Trang mạng Responsible Statecraft gần đây có bài nhận định cho rằng thất bại ở Ukraina xuất phát từ tình trạng thiếu đoàn kết ở phương Tây, khi mà Hoa Kỳ, Anh, và Liên Hiệp Châu Âu có những xung đột về lợi ích trong nhiều vấn đề chính như lệnh trừng phạt, mục tiêu chiến tranh, hỗ trợ tài chính và quân sự… « Không thể đạt được thỏa thuận nếu không nói chuyện với Putin » Ngoài ra, một trong những điểm yếu của trong chính sách về Ukraina của chính quyền Biden cũng như của nhiều nhà lãnh đạo châu Âu là thái độ kiên quyết không đối thoại với Vladimir Putin. Trong một bài viết trình bày quan điểm « America First », đặc sứ Mỹ về Ukraina của Trump, tướng Keith Kellogg, đã chỉ ra "sai lầm" của chính quyền Biden, đó là bất kỳ cách tiếp cận nào đối với Nga đều phải bao gồm cả khả năng răn đe và ngoại giao. « Biden đã không quan tâm đến làm việc với Putin. Ông ấy chỉ muốn lên lớp và cô lập ông ta ». Một « Quick Deals », tức nhanh chóng có được thỏa thuận là những gì ông Donald Trump mong muốn và do vậy, Ukraina sẽ là một trong những hồ sơ đầu tiên về đối ngoại mà tổng thống đắc cử Mỹ sẽ phải nhanh chóng quan tâm đến. Tuy nhiên, theo quan sát từ nhà nghiên cứu về Mỹ, Alexandra de Hoop Scheffer, chủ tịch nhóm cố vấn German Marshall Fund (GMF), những tuần gần đây, chính quyền Trump dường như đang điều chỉnh lại chiến lược. Xu hướng chủ đạo hiện nay là « Hãy cẩn trọng, chớ nên ký kết một thỏa thuận tồi với Putin ». Trên đài France Culture, nữ chuyên gia địa chính trị tại GMF giải thích : « Bởi vì trước hết, Trump sẽ trông như một kẻ thua cuộc. Chúng ta đều biết rõ là ông ấy rất quan tâm đến hình ảnh "người chiến thắng". Điểm thứ hai liên quan đến cảm nhận của Trung Quốc về thỏa thuận này với ông Putin. Cuối cùng, theo tôi, đây cũng là lập luận mạnh mẽ nhất mà châu Âu tác động rất nhiều kể từ khi ông Trump tái đắc cử, đó là "hãy cẩn trọng, chớ để Ukraina trở thành một Afghanistan của Donald Trump". Bởi vì đó cũng là di sản để lại từ cuộc rút quân hỗn loạn mà chính quyền Biden thực hiện năm 2020, nhưng được quyết định bởi Donald Trump . » Vai trò nào cho Trung Quốc ? Câu hỏi đặt ra ở đây là Trung Quốc sẵn sàng đi đến đâu để hậu thuẫn đối tác Nga « vô bờ bến ». Chủ tịch Tập Cận Bình tỏ ra ít phản đối công khai đối với cuộc chiến của ông Putin tại Ukraina, ngược lại, Trung Quốc cung cấp công nghệ quân sự và một sự hậu thuẫn cần thiết cho Nga. Ý thức rõ vấn đề này, sau cuộc họp ba bên tại Paris giữa tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump, tổng thống Pháp Emmanuel Macron và nguyên thủ Ukraina Volodymyr Zelensky nhân lễ mở cửa trở lại Nhà thờ Đức Bà sau 5 năm trùng tu, ông Donald Trump đã tweet rằng « China can help » - Trung Quốc có thể giúp đạt được một thỏa thuận với Ukraina. Chuyên gia về Mỹ Alexandra de Hoop Scheffer ghi nhận ngày càng có sự liên hệ giữa các mặt trận châu Âu – Đại Tây Dương, Trung Đông và Ấn Độ - Thái Bình Dương trong cách tiếp cận của Donald Trump nhằm tạo áp lực với nguyên thủ Nga. Do vậy, bà cho rằng, « sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu trên đường đến Matxcơva hay trên đường trở về từ Matxcơva, ông Trump sẽ dừng lại ở Bắc Kinh và đề nghị Tập Cận Bình gây áp lực lên Vladimir Putin. Bởi vì chúng ta biết rằng, ông Putin ngày nay sẽ không thể tiếp tục nỗ lực chiến tranh nếu không có sự hỗ trợ từ Trung Quốc. Trên thực tế, việc để Trung Quốc đóng một vai trò, không phải là trung gian hòa giải, mà là trong mọi trường hợp để tạo áp lực trong cuộc đàm phán trên nền tảng một thỏa thuận về Ukraina . » Cũng theo nhà nghiên cứu về Mỹ, cách tiếp cận này được thấy rõ qua những gì diễn ra tại Syria : « Phản ứng của Donald Trump khi nhà độc tài Bachar Al-Assad bị các lực lượng Hồi giáo nổi dậy lật đổ là: "Vladimir Putin, hãy cẩn thận, chẳng phải ông đang hứng chịu thảm họa tệ hại nhất tại Syria, thất bại địa chính trị lớn nhất trong chính sách đối ngoại của ông hay sao ? Và có lẽ đã đến lúc ông nên ngồi vào bàn đàm phán về Ukraina. " » Kịch bản khả năng leo thang xung đột ? Nhưng Donald Trump cũng có thể sẽ đối mặt với một Vladimir Putin cứng rắn. Tổng thống Nga tuy nhiều lần nói ông sẵn sàng hợp tác với đồng nhiệm Trump và với nhiều nhà lãnh đạo khác của thế giới để giải quyết khủng hoảng Ukraina, nhưng ông cũng tỏ ra không mấy quan tâm đến các cuộc đàm phán nghiêm túc, theo ghi nhận từ một số nhà quan sát. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Alexandra de Hoop Scheffer, trên đài phát thanh France Culture, châu Âu dường như đã đánh giá thấp và bỏ qua một kịch bản : « Đây là một kịch bản rất có thể xảy ra, tức là ông sẽ phải đối mặt với một Putin nói với ông rằng, " Donald, cảm ơn rất nhiều vì thỏa thuận của ông, nhưng quả thực, tôi thực sự không quan tâm lắm đến điều này, bởi vì tôi đang giành chiến thắng. Tôi có Bắc Triều Tiên bên cạnh tôi và do vậy, đây chưa phải lúc. " Đối diện với sự từ chối của ông Putin, phản ứng của Donald Trump là sẽ không phải là rút khỏi Ukraina mà ngược lại sẽ là leo thang quân sự. Họ đang thảo luận về khả tăng cường hỗ trợ cho Ukraina, gia tăng trừng phạt nhắm vào Vladimir Putin và nước Nga, để một lần nữa buộc ông ấy vào bàn đàm phán ». Trong tất cả những kịch bản này, thách thức lớn đặt ra cho châu Âu là làm thế nào bảo đảm có được một vị trí trong các cuộc đàm phán. Đây chính là những gì Ba Lan sẽ nỗ lực thực hiện trong vai trò chủ tịch luân phiên Liên Hiệp Châu Âu hiện nay. Chính sách « thầu khoán » xử lý khủng hoảng Ngoài ra, nếu có đạt được thỏa thuận thì đó chỉ là một sự đóng băng xung đột, tức là một vùng đệm phi quân sự giữa Nga và Ukraina sẽ được thiết lập dọc theo chiến tuyến. Vùng Donbass và bán đảo Crimée sẽ được cho là thuộc sở hữu của Nga, kèm theo đó là Ukraina phải từ bỏ tham vọng gia nhập NATO ít nhất trong một thời hạn là 20 năm. Đây chính là những gì đang được hình thành trong kế hoạch của Trump. Đổi lại, Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ quân sự cho Ukraina để ngăn chặn Nga mở một cuộc xung đột mới. Trong kịch bản này, châu Âu sẽ phải làm gì ? Nữ chuyên gia về chính sách đối ngoại Mỹ Alexandra de Hoop Scheffer trên làn sóng France Culture đưa ra cảnh báo : « Hoa Kỳ dưới thời Trump đã rất rõ ràng : Họ sẽ không triển khai quân để giúp giám sát đường chiến tuyến. Trách nhiệm này sẽ thuộc về châu Âu và chúng ta cần phải tự lo lấy. Đây là một trong số các mục tiêu của Ủy Ban Châu Âu mới của bà Von Der Leyen: tăng cường, tăng cường, tăng cường nhiều hơn nữa các danh mục đầu tư quốc phòng, nhưng với một mốc thời gian sẽ dài hơn rất nhiều so với những gì chúng ta sẽ cần trong tức thì. Nhưng chúng ta cũng thấy là trong lập luận của Trump không còn trong những cuộc tranh luận nhàm chán về " burden sharing " tức là chia sẻ gánh nặng, mà đúng hơn là " burden shifting " , nghĩa là chuyển giao gánh nặng. Ông ấy muốn giao khoán trách nhiệm xử lý khủng hoảng. Ngoại giao khủng hoảng với đủ các đối tác. Và do vậy châu Âu sẽ phải giải quyết mớ hỗn độn thời kỳ hậu thỏa thuận tại Ukraina. Với Trung Đông cũng tương tự. Donald Trump muốn giao khoán cho các nước vùng Vịnh, cho Ả Rập Xê Út, Qatar: "Đ ây là mớ hỗn độn của quý vị, quý vị hãy xử lý lấy " . Đây là một chính sách khoán thầu, bởi vì, một lần nữa, những người bỏ phiếu cho Trump đều không muốn nhìn thấy nước Mỹ sẽ lại can dự vào những cuộc chiến với những kết quả không chắc chắn . »…
Năm 2024 sắp khép lại, nhưng Trung Đông, Ukraina vẫn trong khói lửa. Tại Biển Đông và eo biển Đài Loan, nguy cơ xung đột vũ trang rình rập. Nước Pháp của tổng thống Emmanuel Macron rơi vào cảnh rối ren chính trị. Trong cảnh hỗn loạn này, nhà tỷ phú Mỹ Donald Trump đánh dấu sự trở lại ngoạn mục khi thắng cử vẻ vang. Trung Đông : Xung đột lan rộng Năm 2024 là một năm chết chóc cho vùng Trung Đông. Israel không những tiếp tục không kích chống phong trào Hồi giáo Palestine Hamas ở dải Gaza khiến hơn 45 ngàn người chết, mà còn mở rộng xung đột sang cả Liban, oanh kích các vị trí của Hezbollah, đồng minh của Hamas. Theo số liệu từ bộ Y Tế Liban, tính từ tháng 10/2023, các cuộc giao tranh giữa Israel và Hezbollah đã giết chết hơn 4.000 người tại Liban. Nhưng năm 2024 còn một năm đen tối cho Iran, Hamas và Hezbollah. Tình báo Israel lần lượt triệt hạ dàn lãnh đạo các đối thủ từ chỉ huy lực lượng Al Qods của Iran tại Syria và Liban cho đến các thủ lĩnh của phe Hamas, Hezbollah. Đỉnh điểm là vụ nổ các máy nhắn tin, bộ đàm trong tháng 9/2024 khiến 37 thành viên Hezbollah thiệt mạng và làm bị thương nặng gần 3.000 người khác. Cuộc oanh kích tăng cường vài ngày sau đó ở phía nam thủ đô Beyrouth, giết chết Hassan Nasrallah, lãnh đạo Hezbollah, đã làm rúng động khu vực. Chiến dịch « thủ tiêu » các thủ lĩnh phe Hamas và Hezbollah của Israel đã làm lung lay « trục kháng chiến ». Hệ quả là tại Syria, liên minh các lực lượng nổi dậy do lực lượng Hồi giáo Hayat Tahrir Al-Sham (HTS) dẫn đầu đã tiến hành một cuộc phản công chớp nhoáng, lật đổ chế độ Damas. Bị Nga và Iran, hai đồng minh lâu đời, bỏ rơi, nhà độc tài Bachar Al-Assad cùng người thân buộc phải bỏ chạy khỏi đất nước, đến tị nạn ở Matxcơva. Rym Momtaz, chuyên gia về Trung Đông, Viện Carnegie, trên kênh truyền hình Pháp – Đức Arte, cho rằng, đây là đòn giáng đau, một thất bại cho trục chiến lược mà Iran xây dựng từ 40 năm qua nhằm mở rộng ảnh hưởng, một tầm ảnh hưởng tai hại, cướp đi sinh mạng của nhiều người dân Syria, người dân Liban, Palestine và Israel. Nhưng đó cũng là một cơ hội để Liban thoát khỏi sự ảnh hưởng của Hezbollah, xây dựng một tương lai mới cho đất nước: « Ở vùng này của xứ sở Ả Rập, sự kết thúc của chế độ Assad có thể được so sánh với sự sụp đổ của Bức tường Berlin. Về phần Liban, điều quan trọng là phải xem trong các cuộc bầu cử tiếp theo, các chính đảng ở Liban cuối cùng có thoát được ảnh hưởng, không chỉ từ chế độ Syria trên thực tế, được tiến hành ít nhiều tùy thuộc vào các giai đoạn kể từ những năm 80 với một cuộc đàn áp đẫm máu, trong đó chế độ này với sự giúp đỡ của Hezbollah đã hạ sát một số đối thủ chính trị, những nhân vật rất quan trọng trong những năm 80 và kể từ những năm 80 cho đến ngày nay. Ngày nay, đây là một cơ hội chưa từng có để Liban hiện đại hóa đất nước, đúng hơn là có thể tự giải phóng và khẳng định chủ quyền của mình. Tôi nghĩ rằng Hezbollah sẽ khó mà áp đặt một ứng cử viên tổng thống hoàn toàn là người của họ . » Chế độ Bachar Al-Assad thất thủ, liệu đó cũng là một « thất bại » cho Nga ? Đây là điều mà tổng thống Nga Vladimir Putin trong buổi trao đổi với giới báo chí cuối năm theo truyền thống đã bác bỏ. Theo quan điểm của nhà địa chính trị học Ulrich Boulnat, sự việc cho thấy Nga khó mà tác chiến trên hai mặt trận cùng một lúc. Trên đài RFI, nhà địa chính trị học giải thích: « Điều này cho thấy trên thực tế hầu hết các nguồn lực quân sự của Matxcơva đều được dồn cho mặt trận Ukraina và do đó Nga thực sự gặp khó khăn trong việc quản lý hai mặt trận. Chúng ta phải hiểu rằng một trong những thế mạnh đặc biệt của Nga ở Syria là khả năng thực hiện các cuộc không kích quy mô lớn. Chúng tôi gần như chắc chắn rằng có khoảng 40 máy bay Nga đóng tại Hmeimmi để thực hiện các vụ đánh bom vào các khu vực nổi dậy ở Syria, nhưng do cuộc chiến ở Ukraina, số máy bay này chỉ còn khoảng một chục chiếc. Hầu hết trang thiết bị và binh lính của Nga ở nước ngoài, thậm chí ở Trung Á đều được cho rút về mặt trận Ukraina vì Nga thiếu người và trang thiết bị. Và vì vậy, việc thiếu người, thiếu máy bay chiến đấu, thiếu cả bom trên máy bay quả thật khiến Nga không thể làm gì nhiều để cứu Bachar Al-Assadvà do đó, Nga không thể làm gì khác ngoài việc đứng nhìn sự sụp đổ của Bachar Al-Assad ». Ukraina : Xung đột bị quốc tế hóa ? Sau thất bại của phản công vào mùa xuân 2023, quân đội Ukraina bất ngờ đánh chiếm vùng Kursk, tây nam nước Nga, giáp biên giới phía bắc Ukraina. Mục tiêu đặt ra là chuyển hướng quân Nga ở mặt trận phía đông nơi Ukraina đang gặp khó khăn trên chiến trường, nhưng bất thành. Ukraina giờ đối mặt với một mùa đông khắc nghiệt thứ ba khi Nga tăng cường oanh kích, phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở năng lượng của Ukraina. Xung đột leo thang khi tổng thống Nga một lần nữa đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân với việc cho sửa đổi học thuyết hạt nhân. Cuộc chiến tại Ukraina còn bị « thế giới hóa » với việc Mỹ và các nước đồng minh châu Âu cho phép Ukraina – sau nhiều tháng đòi hỏi – được sử dụng tên lửa tầm xa để bắn phá các mục tiêu quân sự trên lãnh thổ Nga, và ở bên kia chiến tuyến là việc Bắc Triều Tiên điều hơn 11 ngàn quân sang giúp Nga, theo tinh thần Hiệp ước Đối tác Chiến lược được tổng thống Vladimir Putin ký kết với lãnh đạo Kim Jong Un nhân chuyến thăm chính thức Bình Nhưỡng ngày 19/06/2024. Nếu như sự việc gây lo lắng cho phương Tây cũng như hai nước Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng minh của Mỹ tại châu Á, thì thái độ im lặng của Trung Quốc về việc Nga – Triều thắt chặt hợp tác quân sự đã thu hút nhiều bình luận từ các nhà phân tích phương Tây, cho rằng sự việc đặt Bắc Kinh trong thế bất lợi. Một quan điểm không được Laurent Gédéon, giảng viên trường đại học sư phạm Lyon, chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn dành cho RFI Tiếng Việt ngày 05/12/2024. GV. Laurent Gédéon : « Trong phạm vi này, mối hợp tác quân sự giữa Nga và Bắc Triều Tiên dường như chủ yếu đáp ứng các yêu cầu mang tính chiến thuật và do vậy, Trung Quốc vào lúc này sẽ không có những lo lắng quan trọng nào về vấn đề đó. Quả thật, nhu cầu về đạn dược của quân đội Nga là một trong các yếu tố mạnh mẽ thúc đẩy hợp tác với Bắc Triều Tiên và nước này cũng đã tận dụng cơ hội để thoát khỏi sự cô lập sâu sắc mà họ đang phải đối mặt. Liên quan đến việc binh sĩ Bắc Triều Tiên tham gia trực tiếp vào các cuộc giao tranh, thông báo đưa ra hồi tháng 11/2024 về việc triển khai khoảng 11 ngàn binh sĩ Bắc Triều Tiên ra chiến trường đã cho thấy rằng số binh sĩ này chủ yếu trú đóng tại vùng Kursk, nằm trên lãnh thổ Nga, chứ chưa phải trên lãnh thổ Ukraina. Mục tiêu nhắm đến của Matxcơva là tận dụng sự hỗ trợ này của Bắc Triều Tiên để lấy lại quyền kiểm soát vùng Kursk trước khi Donald Trump lên cầm quyền và khả năng bước vào một giai đoạn đàm phán. Thực vậy, việc chiếm lại được vùng lãnh thổ bị Ukraina chiếm đóng sẽ tước đi một lá bài ngoại giao quan trọng của Kiev. Theo quan điểm của tôi, Trung Quốc im lặng không hẳn là vì nước này bị bất ngờ, bởi vì đối với tôi, có vẻ Nga – Trung đã liên lạc với nhau trước và sau khi Nga – Triều ký thỏa thuận. Sự im lặng này, theo ý tôi, có thể do Trung Quốc cho rằng hành động này thiên về chiến thuật, chứ không phải là một sự thay đổi chiến lược cơ bản . » Đọc thêm: Chiến tranh Ukraina và tam giác chiến lược Nga – Trung – Triều Rủi thay, trong cuộc chiến bất cân xứng này, « bên nào có thể cung cấp nhiều đạn dược cũng như là nhiều " bia người đỡ đạn " , thì bên đó có nhiều cơ may thắng thế », đây chính là những gì Nga đang có. Câu hỏi đặt ra : Liệu rằng cuộc xung đột này có thể chấm dứt vào năm 2025 như mong muốn của tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky hay không ? Mọi cặp mắt giờ đổ dồn về phía tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump ! Biển Đông, eo biển Đài Loan dậy sóng Năm 2024 ghi nhận căng thẳng gia tăng đột biến tại Biển Đông với những cuộc va chạm liên tục giữa hải cảnh Trung Quốc và Philippines. các cuộc tập trận hải quân – không quân quy mô lớn của Trung Quốc xung quanh đảo Đài Loan, trong khi ở bán đảo Triều Tiên, tình hình đã trở nên nóng bỏng với các vụ thử tên lửa đạn đạo của Bắc Triều Tiên. Căng thẳng bán đảo Triều Tiên còn bùng phát đến mức đáng lo ngại khi Bắc Triều Tiên cho xóa bỏ mọi chỉ dấu có liên quan đến việc thống nhất hai miền. Hiến Pháp Bắc Triều Tiên tháng 10/2024 chính thức xem Hàn Quốc là một « quốc gia thù địch », và lãnh đạo Kim Jong Un đe dọa « không ngần ngại » sử dụng vũ khí hạt nhân nếu bị Mỹ - Hàn tấn công. Cán cân an ninh bán đảo Triều Tiên còn trở nên bất ổn hơn khi Bắc Triều Tiên quyết định điều hơn 11 ngàn quân đến Nga trong khuôn khổ Hiệp ước Đối tác Chiến lược được ký kết giữa hai nước nhân chuyến thăm chính thức Bình Nhưỡng của tổng thống Nga Vladimir Putin hồi trung tuần tháng 6/2024. Đổi lại, Bình Nhưỡng có thể nhận được sự hỗ trợ về kỹ thuật, công nghệ quân sự từ Nga. Eo biển Đài Loan năm 2024 cũng không lặng sóng. Từ khi ông Lại Thanh Đức thuộc Dân Tiến Đảng đắc cử tổng thống Đài Loan, Trung Quốc liên tục gia tăng áp lực quân sự với các cuộc tập trận hải quân – không quân quy mô lớn, mô phỏng bao vây đảo, mà chiến dịch hải quân mới nhất là vào ngày 10/12/2024. Mục tiêu là chứng tỏ khả năng bao vây, bóp nghẹt Đài Loan, theo nhận định từ một quan chức quốc phòng cao cấp Đài Loan với AFP. Đọc thêm: Nguy cơ Trung Quốc đánh chiếm: Đài Loan chuẩn bị công luận quốc tế và trong nước như thế nào Tại Biển Đông, Philippines chọn đối đầu với hải cảnh Trung Quốc xung quanh các đảo, bãi đá ngầm có tranh chấp. Các cuộc va chạm giữa tuần duyên hai nước đã gia tăng mạnh mẽ và có phần quyết liệt hơn, khiến các nước trong khu vực lo ngại nổ ra xung đột vũ trang. Trước các hành động hung hăng của Trung Quốc, chính quyền Manila đã tăng cường hợp tác quốc phòng với nhiều đối tác, từ đồng minh truyền thống là Mỹ cho đến Nhật Bản, Úc, Pháp… Đặc biệt, lần đầu tiên, Philippines và Việt Nam đã quyết định thúc đẩy các hoạt động hợp tác song phương trong các lĩnh vực như an ninh, cứu trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa trên biển. Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 07/10/2024, giảng viên Laurent Gédéon, trường Sư phạm Lyon, nhận định về mối quan hệ hợp tác này : GV. Laurent Gédéon : « Theo quan điểm của tôi, đây là vấn đề hợp tác kỹ thuật hơn là cách tiếp cận chiến lược của chính quyền Việt Nam. Vấn đề này nằm trong khuôn khổ hợp tác quân sự và an ninh cổ điển, kiểu hợp tác này cũng tồn tại với lực lượng tuần duyên Trung Quốc. Theo tôi, trước tiên chúng ta có thể thấy sáng kiến này phản ánh tính thực dụng của các nhà lãnh đạo Việt Nam và minh họa cho chính sách giữ khoảng cách cân bằng vốn là đặc trưng của ngoại giao Việt Nam. Hợp tác về mặt quân sự với Philippines cho phép Việt Nam thể hiện là một chủ thể đáng tin cậy trước các nước khác trong khu vực, bao gồm cả Trung Quốc, và có lợi thế là thể hiện rằng Hà Nội không từ bỏ tham vọng của họ ở Biển Đông, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Các cuộc diễn tập chung vào tháng 08/2024, giữa thủy thủ Việt Nam và Philippines, đã xác nhận điểm này. Hai bên tập trung vào hỗ trợ và cứu hộ chứ không phải vào các hành động tấn công. Hai bên không gửi bất kỳ thông điệp thù nghịch nào tới Trung Quốc. Người ta cũng thấy rằng Việt Nam rất kín tiếng trong giai đoạn đỉnh điểm căng thẳng gần đây giữa Manila và Bắc Kinh. Trong những điều kiện này, ít có khả năng Bắc Kinh nhìn nhận là có một mối đe dọa trong diễn biến hiện nay về quan hệ giữa Việt Nam và Philippines ». Đọc thêm: Trung Quốc phải đối phó với hợp tác tuần duyên Việt Nam-Philippines ở Biển Đông ? Mỹ : Sự trở lại ngoạn mục của Donald Trump Năm 2024 còn được đánh dấu bởi thắng lợi vẻ vang của nhà tỷ phú người Mỹ Donald Trump trong một cuộc bầu cử tổng thống mang nhiều yếu tố bất ngờ, từ việc ông bị ám sát hụt cho đến việc ông Joe Biden buộc phải bỏ cuộc và để phó tổng thống Mỹ Kamala Harris lao vào tranh cử giữa dòng. Theo nhà nghiên cứu về Mỹ Alexandra de Hoop Scheffer, chủ tịch nhóm cố vấn Quỹ Marshall Đức (German Marshall Fund – GMF), việc Donald Trump thắng cử không có gì là bất ngờ, nhưng « điều gây ấn tượng là ông ấy đã mở rộng thành công cơ sở cử tri của mình trong tất cả các tầng lớp dân cư Mỹ, từ mọi xã hội nghề nghiệp, các thế hệ, cả trong các cộng đồng sắc tộc người Mỹ gốc Phi và châu Mỹ - Latinh ». Chính sách đối ngoại không phải là điều người dân Mỹ quan tâm, dù vậy, trở lại Nhà Trắng, Donald Trump ít nhất phải đối mặt với nhiều thách thức lớn : Từ thương chiến Mỹ - Trung và Mỹ - Âu, cho đến « chảo lửa » Trung Đông, hồ sơ hạt nhân Iran, an ninh châu Á, đặc biệt là tại Biển Đông và bán đảo Triều Tiên và cuối cùng là Ukraina : Tương lai nào cho nền hòa bình của nước này vào lúc Donald Trump hứa sẽ chấm dứt xung đột trong vòng 24 giờ ? Về điểm này, nữ chuyên gia người Pháp, Alexandra de Hoop Scheffer, trên kênh truyền hình ARTE, ngày giải thích : « Người có lập trường rõ ràng nhất về thỏa thuận mà ông Trump muốn đúc kết với ông Putin là phó tổng thống đắc cử J.D. Vance. Đó là việc thiết lập một vùng đệm phi quân sự giữa quân Nga và quân Ukraina dọc theo đường chiến tuyến mà trên thực tế hiện đang trong ngõ cụt . Vùng Donbass và bán đảo Crimée, sẽ được cho là thuộc sở hữu của Nga. Điều này sẽ đi kèm với một nghĩa vụ buộc Ukraina phải từ bỏ tham vọng gia nhập NATO ít nhất trong một thời hạn là 20 năm. Đây chính là những gì đang được hình thành trong kế hoạch của Trump. Đổi lại, Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ quân sự cho Ukraina để ngăn chặn Nga mở lại một cuộc xung đột mới. Nhưng tôi e rằng gánh nặng kinh tế, quân sự, nhân đạo sẽ đè nặng lên châu Âu . » Pháp : Chính trường hỗn loạn Năm 2024 sẽ được ghi lại trong biên niên sử như là một năm khủng khiếp cho nước Pháp. Về đối ngoại, Pháp lại bị mất thêm các căn cứ quân sự tại châu Phi là Cộng hòa Tchad và Senegal. Về đối nội, đây là một năm « đen đủi » cho tổng thống Emmanuel Macron, bất chấp một Thế Vận Hội Mùa Hè 2024 thành công rực rỡ được thế giới ca ngợi hết lời, bất chấp việc mở cửa trở lại Nhà Thờ Đức Bà Paris sau 5 năm trùng tu được cả thế giới chào mừng. Chỉ trong vòng có một năm nước Pháp có đến bốn thủ tướng, lần đầu tiên tính từ năm 1934, và các chính phủ nối tiếp, trong nhiều tuần chỉ «xử lý thường vụ». Nguyên nhân chỉ vì một quyết định mà nhiều người chỉ trích cho là « đơn phương » của tổng thống Pháp, giải tán Quốc Hội và tổ chức bầu cử sớm sau thất bại củ đảng của ông trong cuộc bầu cử Nghị Viện Châu Âu, với hy vọng tìm lại được đa số ở Hạ Viện. Quyết định « điên rồ » này của nguyên thủ Pháp đã không mang lại kết quả như mong muốn : Nghị trường Pháp không những bị phân mảnh, không có đa số rõ rệt, mà còn cho thấy sự trỗi dậy mạnh mẽ của đảng cực hữu Tập Hợp Dân Tộc (RN) và đảng cực tả Nước Pháp Bất Khuất (LFI). Nghị trường Pháp tê liệt, không có ngân sách, đẩy nước Pháp rơi vào tình trạng bất động do thiếu đa số. Liệu rằng François Bayrou, vị thủ tướng thứ tư vừa được bổ nhiệm ngay trước cuối năm, có sẽ chịu chung số phận với người tiền nhiệm Michel Barnier, chỉ tồn tại được ba tháng do không vượt qua được cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ ? Nỗi ngờ vực chưa có lúc nào lớn như hiện nay. Bế tắc chính trị xảy ra vào lúc thâm hụt ngân sách đạt mức kỷ lục, với mức nợ công lên đến hơn 110% so với GDP, tức ở khoảng hơn 3.100 tỷ euro. Trước nguy cơ đất nước trong tình trạng mất phương hướng và bất động kéo dài, Alain Minc, một cây bút thời luận, trên đài phát thanh France Culture cảnh báo : Nước Pháp chỉ có thể thoát khỏi sự bế tắc chính trị hiện nay bằng một cuộc bầu cử mới, hoặc tổng thống, hoặc lập pháp. Một điều chắc chắn, các rối ren chính trị đã làm suy yếu rõ rệt vai trò của Pháp trên trường quốc tế, đặc biệt là trong khối Liên Hiệp Châu Âu !…

1 Nguy cơ Trung Quốc đánh chiếm: Đài Loan chuẩn bị công luận quốc tế và trong nước như thế nào 22:28
22:28
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked22:28
Từ năm 2022, sau chuyến thăm Đài Bắc của chủ tịch Hạ Viện Mỹ lúc bấy giờ là bà Nancy Pelosi, Trung Quốc không ngừng gia tăng sức ép quân sự với đảo Đài Loan. Đỉnh điểm mới nhất là vào ngày 10/12/2024, Trung Quốc triển khai « gần 90 tầu chiến » tại các vùng biển Hoa Đông, Biển Đông, cũng như tại eo biển Đài Loan, cao hơn nhiều so với đợt tập trận năm 2022. Kết thúc cuộc tập trận kéo dài nhiều ngày, Bắc Kinh, qua lời phát ngôn viên bộ Quốc Phòng Trung Quốc Ngô Khiêm, tuyên bố Trung Quốc là « nước duy nhất » có thể « quyết định tổ chức hay không các cuộc tập trận, cũng như là thời điểm nước này tổ chức tùy theo nhu cầu riêng » của Trung Quốc. Các cuộc tập trận của Trung Quốc mô phỏng tấn công chống tầu chiến và thao dượt phong tỏa các đường biển. AFP ngày 13/12/2024 dẫn lời một quan chức an ninh cao cấp Đài Loan, xin ẩn danh, cho biết những chiến dịch hải quân rầm rộ của Bắc Kinh là nhằm chứng tỏ khả năng bóp nghẹt Đài Loan. Trong 70 năm tồn tại, chưa lúc nào quan hệ giữa hai bờ eo biển lại trở nên căng thẳng gay gắt như trong gần một thập niên gần đây, nhất là kể từ khi ông Tập Cận Bình lên cầm quyền tại Trung Quốc vào năm 2013 và ở bên kia eo biển, Dân Tiến Đảng, chủ trương độc lập, lên lãnh đạo Đài Loan. Benjamin Blandin, tiến sĩ ngành Quan hệ Quốc tế, Viện Công giáo Paris trong một bài viết đăng trên The Conversations, đưa ra các con số ấn tượng : Số vụ tầu chiến Trung Quốc xâm nhập vùng dặc quyền kinh tế Đài Loan đã tăng từ 71 vào năm 2018 lên mức 600 vụ trong năm 2019 và tăng vọt lên 3.478 lần vào năm 2020. Riêng trong năm 2022, hơn 2.000 lần máy bay Trung Quốc đi vào vùng nhận diện phòng không của Đài Loan được ghi nhận. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong nhiều dịp khác nhau đều đưa ra cảnh báo chống mọi sự can thiệp vào chuyện nội bộ Trung Quốc, kể cả vấn đề Đài Loan, mà theo quan điểm của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đây chỉ là một đảo phản nghịch, sớm hay muộn phải được thu hồi, kể cả bằng vũ lực. Tháng 11/2022, trong cuộc điện đàm với tổng thống Mỹ Joe Biden, ông Tập Cận Bình đã nêu rõ Đài Loan là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc và do vậy đối với các cường quốc khác, hòn đảo này là một « lằn ranh đỏ » không nên vượt qua. Giới quan sát phương Tây cho rằng từ đây đến năm 2049, một cuộc tấn công chiếm đảo rất có thể sẽ trở thành hiện thực – đó là năm Trung Quốc kỷ niệm 100 năm ngày lập quốc. Cuộc tấn công có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức : Sử dụng các hệ thống vũ khí và triển khai quân đổ bộ ; khởi động cuộc chiến hỗn hợp bao gồm phá hủy các cơ sở hạ tầng chủ chốt và cắt nguồn điện hay cắt kết nối mạng Internet ; thiết lập vùng cấm bay trên không phận Đài Loan ; và thậm chí bao vây kín đảo. Trong bối cảnh này, việc Donald Trump sắp trở lại cầm quyền càng khiến cho chính quyền Đài Bắc lo ngại về những bước đi bất định của nhà tỷ phú Mỹ : Liệu tân chủ nhân Nhà Trắng có sẽ đem an ninh của Đài Loan ra mặc cả trong cuộc thương chiến với Trung Quốc ? Người dân Đài Loan cảm nhận như thế nào về mối nguy Trung Quốc tấn công ? Liệu Đài Loan có thể trông cậy vào sự hậu thuẫn từ các nước bên ngoài như Mỹ và Nhật Bản ? Anh Nguyễn Giang, thông tín viên của RFI Tiếng Việt, sau bốn tháng tham gia các khóa học ngắn hạn tại trường đại học Chính trị Đài Loan (NCCU), có dịp tham quan một số nơi và gặp gỡ trao đổi với các học giả đến từ nhiều nước trên thế giới, cũng như với người dân địa phương, trước hết ghi nhận xã hội Đài Loan, từ giới học giả, quân sự, cho đến những người dân bình thường đều rất quan tâm đến mối quan hệ với Trung Quốc. Ngành nghiên cứu về quan hệ xuyên eo biển Đài Loan là một ngành rất phát triển. Đài Loan đã chuẩn bị cho nguy cơ bị tấn công từ rất lâu, và gần như trở nên chuyên nghiệp trong việc đối phó với Trung Quốc, qua việc mở các hội thảo và thường xuyên thao dợt, tập trận trên mạng, với sự tham dự của nhiều học giả quốc tế. TTV. Nguyễn Giang : « Đài Loan áp dụng năm nguyên tắc của Tôn Tử, nhà lý thuyết quân sự nổi tiếng thời Trung Hoa cổ đại. Học thuyết chiến tranh của Tôn Tử phân tích 5 yếu tố : Thiên, Khí, Địa, Tướng và Pháp (…) Ngược lại, người dân Đài Loan nhìn nhận Trung Quốc cũng là người Trung Hoa và do vậy, họ cũng có thể dùng binh pháp Tôn Tử, cũng phân tích Thiên – Khí – Địa – Tướng – Pháp để đánh giá Đài Loan (…) Mối quan hệ xuyên eo biển gần như là những câu chuyện hàng ngày. Nhưng điều đó không có nghĩa là người dân Đài Loan có vẻ lo sợ hay là người ta cảm thấy – như một số đài báo ở bên Anh hay ở châu Âu hay như ở các nước khác – như là sắp có chiến tranh . » Các điều tra dư luận do Reuters công bố gần đây cũng cho thấy có một sự cách biệt rõ giữa các thế hệ về chủ đề hợp nhất Đài Loan với Trung Quốc. Điều tra cho thấy, tuy sống trong căng thẳng nhưng 61% số người được hỏi không tin rằng Trung Quốc sẽ tấn công ; 69% khẳng định họ sẽ đứng lên bảo vệ lãnh thổ Đài Loan, nhưng khoảng một nửa trong số này không tin quân đội Đài Loan đủ sức để chống trả trong trường hợp bị Trung Quốc bao vây và chặn viện toàn bộ. TTV. Nguyễn Giang : « Khi đến những thành phố khác, qua trao đổi với người dân bình thường, tôi thấy họ có một niềm tin là, " đều là người Trung Hoa cả, thì không có chuyện người Trung Hoa ở bên kia lại sang bắn giết bên này " . Thứ hai, khi tôi trò chuyện với một số bạn trẻ hơn, ngoài 20-25 tuổi, họ có những suy nghĩ ngược lại. Họ không quan tâm đến Trung Quốc, không coi mình là người Trung Quốc, và tự cho mình là người Đài Loan và chẳng có lý do gì để về với lục địa cả. Sự phân chia thế hệ ở Đài Loan và thái độ của họ đối với Trung Quốc là rất rõ rệt. Những người cao tuổi họ vẫn tin mình là người Trung Quốc, đó là những người có cha mẹ họ hàng từ Trung Quốc sang, hay vẫn còn anh em, chú bác ở bên đó . » Nhưng cuộc bầu cử tổng thống năm nay ở Đài Loan còn cho thấy có một xu hướng muốn « giữ nguyên trạng », nghĩa là không về với Đại Lục, mà cũng không đòi độc lập. Sự kiện này minh chứng cho một xã hội Đài Loan cởi mở, có những luồng tư tưởng rất tự do, và một xu thế tạo bản sắc riêng đang hình thành. Xu thế này cũng cho thấy là xã hội Đài Loan cũng đã có những biến chuyển nhanh trong những năm gần đây. TTV. Nguyễn Giang : « Giới học giả nước ngoài sang Đài Loan làm việc đều chia sẻ quan điểm : Giữ nguyên trạng là hình thức tốt nhất cho Đài Loan (…) Nếu bây giờ Trung Quốc không thống nhất, càng để về sau Đài Loan trở thành một xã hội rất xa lạ với Trung Quốc. Giới trẻ Đài Loan không quan tâm, thậm chí nếu không đi Trung Quốc cũng không sao. Họ đã thành một thế hệ thứ ba sống ở đây, tách biệt với Trung Hoa Đại Lục. Mức sống cao hơn, đi sang Đông Nam Á rất được coi trọng, hộ chiếu Đài Loan là một hộ chiếu rất có quyền lực và mức sống của họ tương đối ổn . » Nhìn chung, tuy luôn dưới sức ép quân sự của Trung Quốc, giới quan sát và các nhà phân tích tại Đài Loan tin rằng Trung Quốc khó thể tấn công ồ ạt Đài Loan, một mặt do những khó khăn về vị trí địa lý và mặt khác do những ràng buộc lợi ích giữa Mỹ và Đài Loan. TTV. Nguyễn Giang : « Theo trình bày của một cựu sĩ quan hải quân về hưu, đường trung tuyến ở phía Tây của đảo Đài Loan nhìn ra eo Bashi và vùng biển của Philippines, hóa ra Đài Loan rất gần với nhiều đảo nhỏ của Nhật Bản, không đơn giản là Nhật Bản ở rất xa phía bắc, ngay phía đông nam của Đài Loan đã là một số đảo nhỏ của Nhật. Thế nên, không dễ dàng gì Trung Quốc có thể đem quân, vòng ra bên ngoài hải quân để đánh từ phía đông đánh lại mà Nhật Bản có thể để yên, chắc chắn là sẽ đi vào vùng nước của Nhật Bản. Thứ hai, Hoa Kỳ luôn giữ Đài Loan như là một con xe trong trận cờ với Trung Quốc ở nhiều góc độ. Do vậy, không đơn giản là một ông Trump lên sẽ có những quyết định cá nhân đối với Đài Loan. Bởi vì đây là cả quyền lợi lâu dài của người Mỹ. Ví dụ họ muốn bảo vệ nguồn cung ứng chip bán dẫn Đài Loan, có vị trí quan trọng cho cả công nghiệp cũng như cho quân sự của Hoa Kỳ . »…

1 Syria: Bachar Al-Assad bị lật đổ, bàn cờ Trung Đông bị "đảo lộn" 12:16
12:16
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked12:16
Chế độ độc tài Bachar Al-Assad sụp đổ đẩy nhanh sự suy yếu ảnh hưởng của Nga và Iran tại Syria cũng như trong vùng Trung Đông. Sự kiện này khẳng định vai trò quyết định của Thổ Nhĩ Kỳ và trong chừng mực nào đó là vị thế của Israel và Mỹ trong chiến thắng của phe nổi dậy. Chỉ trong vòng 12 ngày, chế độ độc tài Al-Assad, tồn tại vững chắc trong suốt hơn nửa thế kỷ, đã sụp đổ nhanh chóng. Theo một số nhà quan sát, kết quả này không có gì đáng ngạc nhiên, mà đó là hệ quả của một quá trình xuống dốc bắt đầu từ năm 2011, thời điểm nổ ra cuộc cách mạng « Mùa Xuân Ả Rập ». Thiên thời, địa lợi, nhân hòa Chế độ Bachar Al-Assad, bị suy yếu do các cuộc biểu tình, cũng như do số lượng đáng kể các nhóm Hồi giáo cực đoan hay ôn hòa và kể cả những nhóm vũ trang phi tôn giáo, đã có thể trụ được cho đến ngày nay là nhờ vào sự hậu thuẫn của Nga và Iran. Bachar Al-Assad bị lật đổ cũng vì ông không còn được quân đội hậu thuẫn. Lực lượng trung thành với chế độ kêu gọi sĩ quan không chiến đấu và trong một động thái hiếm có, « bộ Tổng tham mưu ra thông cáo nói rằng chế độ Bachar Al-Assad đã kết thúc ». Trên thực tế, đó là một đội quân yếu kém, trang bị tồi, không còn tinh thần chiến đấu, theo như phân tích từ nhà nghiên cứu về Syria, Fabrice Balanche, giảng viên trường đại học Lyon 2, trên làn sóng RFI : « Quân đội Syria đã kiệt quệ. Cộng đồng thiểu số Hồi giáo hệ phái Alawites, vốn dĩ là nguồn cung chính cho các lực lượng quân đội trung thành với chế độ, hiến binh và các đơn vị tinh nhuệ, cũng đã kiệt sức, họ không còn muốn chiến đấu nữa. Đã có quá nhiều thiệt hại nhân mạng. Có khoảng 1/3 số đàn ông của cộng đồng, trong độ tuổi từ 20-45, đã chết trong cuộc chiến này ». Rồi nguồn hậu thuẫn từ Nga và Iran cũng bị suy giảm. Năm 2015, Nga can thiệp vào cuộc nội chiến Syria để bảo vệ đồng minh Bachar Al-Assad, trong bối cảnh chưa có xung đột Ukraina, Iran chưa « bị đánh gục » như hiện nay, và dải Gaza cũng chưa có biến cố 07/10. Ông Adel Bakawan, chuyên gia về Irak, trong chương trình Địa Chính Trị của RFI Pháp ngữ (08/12/2024), giải thích tiếp : « Từ khi chiến tranh Ukraina nổ ra, theo ước tính, Nga đã điều sang Ukraina khoảng từ 75-80% lực lượng mà trước đây họ bố trí ở Syria. Khách quan mà nói, Nga đã ở vào thế không thể ứng cứu Bachar Al-Assad. Chế độ Iran chưa bao giờ bị đe dọa cả từ bên trong lẫn bên ngoài như hiện nay. Ở trong nước là một làn sóng phản đối lớn, còn ở bên ngoài, Iran phải đối mặt với Israel và Hoa Kỳ. Và do vậy, Iran cũng không thể đến cứu Bachar Al-Assad. Trục kháng chiến cũng vậy, ở Gaza, Hamas và nhóm Thánh chiến Hồi giáo thì bị san bằng, còn phe Hezbollah ở Liban đã bị tiêu diệt. Chẳng còn ai có thể đến cứu chế độ. " Ông vua đã bị lột trần » trước mắt phe nổi dậy. » Sai lầm chiến lược của Nga Trong con mắt nhiều nhà phân tích phương Tây, sự kiện chế độ độc tài Damas sụp đổ đã cho thấy thất bại chiến lược của Nga. Cựu sĩ quan quân đội Pháp, ông Guillaume Ancel, và cũng là một cây bút thời luận về chiến sự, trên kênh truyền hình TV5 Monde nhắc lại : « Đây còn là một thất bại cho nước Nga của ông Vladimir Putin, bởi vì chính Nga đã hậu thuẫn Iran. Chính Nga hỗ trợ tất cả các nhóm vũ trang ủy nhiệm của Iran trong vùng Cận Đông. Điều chắc chắn là Nga đã châm ngòi cho cuộc tấn công khủng bố 07/10 chống Israel nhằm mở ra một mặt trận thứ hai để đánh lạc mục tiêu liên quan đến Ukraina, nhưng cuối cùng nước này cũng bị liên đới với hiệu ứng như một vụ nổ, bởi cuộc phản công bất ngờ này dẫn đến sụp đổ chế độ Damas . » Một hệ quả khác, không kém phần quan trọng của việc ông Bachar Al-Assad bị lật đổ là Nga có nguy cơ mất hai căn cứ chiến lược tại Syria, cửa ngõ cho Nga mở ra vùng Địa Trung Hải và triển khai sức mạnh quân sự ra châu Phi : Căn cứ hải quân Tartous và căn cứ không quân Hmemmim. Mất hai căn cứ này cũng có nghĩa là Nga sẽ mất ảnh hưởng tại vùng Trung Đông. Giới quan sát cho rằng, đây còn là thất bại cay đắng của quân đội và nhất là tình báo Nga. Matxcơva lẽ ra phải dự đoán rằng Israel có nhiều khả năng tấn công Syria một khi thỏa thuận hưu chiến được ký kết với phe Hezbollah. Đọc thêm: Syria : Chính quyền Putin câm lặng trước thất bại của quân đội và tình báo Thất bại của Trục kháng chiến Nhưng có lẽ trong ván cờ này, bên thua nặng nhất là Iran. Ngay khi Cộng hòa Hồi giáo ra đời năm 1979, chế độ thần quyền Iran đã thắt chặt quan hệ với chế độ Assad, một phần cũng vì có chung một kẻ thù là Irak thời Saddam Hussein trong những năm 1990 và phần khác là sự gần gũi về tôn giáo giữa hai hệ phái Shia và Alawites. Syria cũng như Irak là một trong những mắc xích quan trọng trong « Trục kháng chiến », một đại lộ để Teheran vận chuyển vũ khí chi viện cho phe Hezbollah Liban, và gây áp lực lên đối thủ lớn của mình là Israel. Việc Damas sụp đổ đã gây ra những hậu quả chiến lược to lớn, cản trở Iran cấp vũ khí cho Hezbollah, cực kỳ bị suy yếu sau các chiến dịch triệt hạ dàn lãnh đạo Hezbollah cùng với các cuộc không kích của Israel vào các cơ sở quân sự của Hezbollah trên lãnh thổ Libann cũng như tại Syria trong những tháng gần đây. Tình huống này tước mất của Iran một công cụ để gây sức ép với Israel và Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời làm suy yếu Irak, một nút thắt khác trong « Trục Kháng chiến » của Iran. Trên làn sóng RFI, Pierre Razoux, giám đốc Quỹ Nghiên cứu Chiến lược về Địa Trung Hải nhận định : « Hiển nhiên, sự kiện này đã bẻ gãy " Trục Kháng chiến " do Teheran thiết lập. Trên thực tế, từ lâu những mắc xích yếu là Irak, Liban, giờ là Syria, vốn dĩ trước đây khá ổn định và tương đối vững mạnh. Iran kể từ giờ không thể tiếp cận trực tiếp Liban qua ngả đường bộ. Phe Hezbollah Liban hoàn toàn bị cô lập . Vụ việc này cũng ảnh hưởng đến Irak. Tôi nghĩ rằng giới chức Irak hiện nay cảm thấy bị căng thẳng. Họ tự hỏi liệu sắp tới Irak có sẽ là mục tiêu tiếp theo vừa của phe thánh chiến, vừa của một liên minh giữa Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Hoa Kỳ và Ả Rập Xê Út, sau khi đã làm sụp đổ chế độ Assad tại Syria ? » Đọc thêm: Chế độ Al Assad sụp đổ: Iran mất mắt xích quan trọng nhất của « trục kháng chiến » Israel « cắt vòi bạch tuộc », Thổ Nhĩ Kỳ khẳng định vị thế Nếu như chiến thuật « cắt vòi bạch tuột » của Israel phần nào thành công, giới chuyên gia cũng nhận xét rằng tuy kẻ thù Bachar Al-Assad bị lật đổ, Israel có nguy cơ đối diện với một hiểm họa mới : Một chính quyền Hồi giáo cực đoan có thể hình thành ngay sát biên giới Israel. Tuy reo hò thắng lợi trước đối thủ Iran, cùng lúc Israel cũng có những biện pháp phòng ngừa để bảo đảm rằng các lực lượng nổi dậy hay nhiều nhánh vũ trang cực đoan khác không thể tấn công trực tiếp Israel. Chuyên gia Pierre Razoux cho biết « quân đội và không quân Israel đã liên tục oanh tạc các trại lính và nhiều vị trí quân sự, đặc biệt là các đơn vị tinh nhuệ của Bachar Al-Assad, để bảo đảm rằng các thiết bị quân sự tối tân, do quân đội kiểm soát, không rơi vào tay kẻ xấu . » Người vui mừng thắng lợi nhiều nhất là Thổ Nhĩ Kỳ. Trong chiến dịch phản công chớp nhoáng, Ankara có một vai trò quyết định, kiến tạo cho những gì diễn ra hiện nay. Với chiến dịch này, tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ đã đạt được nhiều mục tiêu chiến lược : Đầu tiên hết là tạo ra một vùng đệm quân sự ở phía bắc Syria, chia cắt mối liên hệ giữa người Kurdistan Thổ Nhĩ Kỳ và Kurdistan Syria. Bachar Al-Assad bị hạ bệ sẽ giúp hồi hương hàng triệu người tị nạn Syria trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ra, đây còn là một thông điệp rõ ràng gởi đến đối thủ cạnh tranh Iran nhằm khẳng định vai trò « không thể bỏ qua » của Thổ Nhĩ Kỳ trong tiến trình Astana để giải quyết xung đột tại Syria. Đọc thêm: Israel vẫn oanh kích dồn dập Syria dù bị Liên Hiệp Quốc lên án Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Fabrice Balanche lưu ý, « chính Thổ Nhĩ Kỳ điều khiển những gì xảy ra tại Syria. Đây là chiến lược tân đế chế Ottoman mà Thổ Nhĩ Kỳ của ông Erdogan đã phát triển từ một chục năm qua. Chỉ có điều chiến lược này đoạn tuyệt một cách thô bạo với nguyên trạng ở Syria, với những thỏa thuận mà Thổ Nhĩ Kỳ ký kết với Nga và Iran. Tôi không chắc là Nga có thể giữ được hai căn cứ quân sự tại Syria, và nếu như vậy, ông Putin khó mà tha thứ cho Erdogan . » Âm mưu của Mỹ và Israel ? Dù vậy, giới quan sát cũng thận trọng đánh giá mọi việc chưa hoàn toàn ngã ngũ. Ý thức được những hạn chế hiện tại, Nga và Iran đã tỏ ra thực dụng, chấp nhận bỏ rơi chế độ Bachar Al-Assad. Thông tín viên của RFI tại Matxcơva, Anissa El-Jabri, trả lời đài truyền hình Pháp LCI cho biết, ngoài việc tỏ ra kín tiếng về biến cố này ở Syria, chính quyền Matxcơva trong những phát biểu chính thức có giọng điệu khá hòa dịu, không xem phe nổi dậy là những phần tử khủng bố như trước đây, mà gọi là « các chiến binh vũ trang » hay là « các phe phái đối lập khác nhau » tại Syria. Pierre Razoux, giám đốc Quỹ Nghiên cứu Chiến lược Địa Trung Hải, cho rằng Matxcơva bỏ rơi Bachar Al-Assad là để Nga và Iran có thể dàn xếp, thương lượng với các nhà lãnh đạo mới ở Syria. « Bởi vì chúng ta thấy rõ là phía Nga, điều cốt lõi là điện Kremlin muốn đàm phán với chính quyền mới tại Syria, bất kể là ai, về việc giữ Tartous và Hmemmis, hai căn cứ quân sự chính tại Syria. Vì lý do này mà Nga không tỏ ra ủng hộ đến cùng Bachar Al-Assad. Đối với Iran, thương lượng với tân chính quyền Syria về quyền được đi qua lãnh thổ để tiếp viện cho Hezbollah ở Liban, hiện đang bị cô lập hoàn toàn, là điều thiết yếu. Bởi vì trục tiếp viện chính, qua ngả Syria, Irak đã bị đóng do khu vực này nằm dưới sự kiểm soát của Lực lượng Dân chủ Syria người Kurdistan, lực lượng Hezbollah thì đã bị cô lập hoàn toàn từ khi Israel không để một máy bay nào của Iran đi vào không phận Liban . » Trong bối cảnh này, ngày 11/12/2024, giáo chủ Ali Khamenei, ba ngày sau khi chế độ Damas sụp đổ, đã đưa ra những bình luận đầu tiên khi cáo buộc « những gì diễn ra ở Syria, chẳng chút nghi ngờ, là kết quả một âm mưu của Mỹ và Israel ». Alexandre Del Valle, nhà địa chính trị học Pháp – Ý, trả lời phỏng vấn trang tin Atlantico của Pháp nêu lên một chi tiết : Lãnh đạo phong trào Hayat Tahrir Al-Sham (HTS), ông Abou Mohammed Al-Golani, « thường xuyên nhận chỉ thị từ Thổ Nhĩ Kỳ, và một cách bí mật, gián tiếp từ Mỹ, vốn dĩ đang theo dõi điều được cho là xu hướng ôn hòa hơn » của ông Golani !…

1 Chiến tranh Ukraina và tam giác chiến lược Nga – Trung – Triều 17:58
17:58
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked17:58
Trung Quốc và Nga có mối quan hệ đối tác « vô bờ bến ». Bắc Kinh và Bình Nhưỡng, trong quá khứ từng được mô tả như « môi với răng » lại duy trì một mối quan hệ phức tạp, nhiều mâu thuẫn. Và gần đây, Nga và Bắc Triều Tiên tuyên bố thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện. Nhưng ẩn sau các mối quan hệ song phương chằng chịt đó còn có một tam giác chiến lược Nga – Trung – Triều đối trọng với liên minh quân sự ba bên Mỹ – Nhật – Hàn tại vùng Đông Bắc Á. Mối quan hệ hợp tác được củng cố giữa Nga và Bắc Triều Tiên có vẻ đặt Trung Quốc trong thế khó, nhưng cũng có thể mang lại một lợi thế chiến lược cho Bắc Kinh trong cuộc đọ sức với Washington. Trên đây là những nhận định chung từ giảng viên Laurent Gédéon, trường đại học Sư phạm Lyon trong cuộc trả lời phỏng vấn dành cho RFI Tiếng Việt. Mời quý vị theo dõi. ---------- ********** ---------- RFI Tiếng Việt : Trước hết, ông mô tả như thế nào về mối quan hệ mà Trung Quốc duy trì với Nga ? Đó là quan hệ hữu nghị, đối tác quân sự hay đối tác thương mại ? GV. Laurent Gédéon : Cả ba tính chất này có vẻ đều phù hợp với những gì có liên quan đến quan hệ Nga – Trung. Quả thật, mối quan hệ này đã không ngừng được củng cố kể từ khi ông Tập Cận Bình lên cầm quyền năm 2013. Chúng được đánh dấu bằng một sự xích lại gần rõ nét từ đầu những năm 2020. Ngày nay, hai nước xem nhau như là những đối tác chiến lược hơn là đối thủ. Khía cạnh thân thiện được thể hiện qua nhiều chuyến thăm song phương và thực tế là cá nhân Vladimir Putin biết rõ Tập Cận Bình, người cũng luôn ca tụng đồng nhiệm Nga. Hai nhà lãnh đạo này gặp trực tiếp hơn 40 lần và Tập Cận Bình đã đến thăm Nga chín lần kể từ năm 2013, tức nhiều hơn gấp hai lần số chuyến thăm của ông đến nhiều nước khác. Đó còn là một mối quan hệ đối tác quân sự, và mối hợp tác này đại diện cho một trong những khía cạnh quan trọng cho quan hệ Nga – Trung. Chúng được thể hiện qua việc mua trang thiết bị quân sự, chủ yếu là từ Trung Quốc. Chỉ riêng năm 2010, Trung Quốc vẫn mua đến 68% trang thiết bị quân sự Nga. Mối quan hệ hợp tác này còn được thấy qua cả việc tổ chức các cuộc tập trận chung. Các đợt tuần tra không quân – hải quân đã tăng mạnh trong những năm gần đây. Tính từ năm 2017, Nga và Trung Quốc tiến hành hơn 100 cuộc tập trận chung. Quan hệ đối tác này cũng mang tính thương mại, bởi vì Nga giúp Trung Quốc đáp ứng các nhu cầu kinh tế và năng lượng. Nhìn một cách tổng quát, trao đổi thương mại giữa hai nước đã có mức tăng trưởng vượt bậc trong hai thập kỷ gần đây. Riêng giai đoạn 2000 – 2021, trao đổi thương mại hàng năm giữa Trung Quốc với Nga tăng từ 8 tỷ đô la lên gần 150 tỷ đô la. Đương nhiên, những sản phẩm năng lượng chính như than đá, khí đốt và nhất là dầu hỏa chiếm một tỷ trọng lớn hàng nhập khẩu Trung Quốc. Còn với Bắc Triều Tiên, Trung Quốc có một mối quan hệ ra sao ? GV. Laurent Gédéon : Đó là một mối quan hệ phức tạp và hàm chứa một số mâu thuẫn. Cuộc chiến Triều Tiên đã đặt nền tảng cho mối quan hệ Trung – Triều và mối quan hệ này được đánh dấu bởi sự can dự trực tiếp của quân đội Trung Quốc trong xung đột. Trong nhiều thập niên, hai nước mô tả mối quan hệ thân thiết như « môi với răng » theo như cách nói của Mao. Nhưng mối quan hệ này đã trải qua giai đoạn tồi tệ, liên quan trực tiếp đến chương trình phát triển hạt nhân Bắc Triều Tiên. Năm 2006, khi Bình Nhưỡng tiến hành đợt thử vũ khí hạt nhân đầu tiên, Bắc Kinh đã xem đấy như là một sự vi phạm đồng thuận quốc tế, xin trích, một cách « trắng trợn và trơ trẽn » và đã phản ứng bằng cách ủng hộ các trừng phạt của Liên Hiệp Quốc. Thái độ cứng rắn ngoại giao này của Trung Quốc được tiếp tục trong suốt những năm 2010 và cuối cùng lên đến đỉnh điểm là các biện pháp trừng phạt đơn phương mạnh mẽ nhắm vào Bắc Triều Tiên năm 2017. Nhưng có một yếu tố làm thay đổi diện mạo là cuộc gặp giữa Kim Jong Un và Donald Trump ngày 12/06/2018 tại Singapore, khiến Trung Quốc lo sợ Bắc Triều Tiên rời xa tầm ảnh hưởng của Trung Quốc dưới sự thúc đẩy của chính quyền Mỹ. Bắc Kinh đã quyết định tạo một động lực mới cho mối quan hệ Trung – Triều, được đánh dấu bởi chuyến công du đến Bình Nhưỡng của ông Tập Cận Bình ngày 19/06/2019. Đây là lần đầu tiên sau 14 năm một lãnh đạo Trung Quốc đến thăm Bắc Triều Tiên. Các mối liên lạc được nối lại giữa các quan chức hai nước ở nhiều cấp độ khác nhau. Kim Jong Un và Tập Cận Bình có đến 5 cuộc gặp trong năm tiếp theo. Trung Quốc còn thể hiện sự ủng hộ bằng cách cung cấp thường xuyên viện trợ kinh tế bất chấp các trừng phạt của quốc tế. Ngoài sự hỗ trợ về kinh tế, hiệp ước Trung – Triều, tức thỏa thuận phòng thủ chung được ký kết năm 1961, đã được triển hạn vào năm 2021 thêm 20 năm nữa. Giữa hai nước cũng có sự hợp tác về kinh tế, bởi vì Bắc Kinh là đối tác thương mại hàng đầu của Bình Nhưỡng, chủ yếu liên quan đến hàng nhập khẩu lương thực và năng lượng của Bắc Triều Tiên. Cũng cần lưu ý đến sự tồn tại nhiều đặc khu kinh tế cho phép tổ chức các dòng lưu thông hàng hóa giữa hai nước. Điều đó cho thấy những mối quan hệ này, giữa Nga với Trung Quốc và giữa Trung Quốc và Bắc Triều Tiên là không cùng một kiểu. Có nhiều khả năng, sự tin cậy giữa Matxcơva và Bắc Kinh có tầm quan trọng hơn là giữa Bình Nhưỡng với Bắc Kinh, bởi vì Trung Quốc luôn ngờ vực Bắc Triều Tiên. Trên bình diện chiến lược, người ta nói nhiều về tam giác Nga – Trung – Triều đối trọng với tam giác Mỹ – Nhật – Hàn tại vùng Đông Bắc Á. Đâu là vai trò chính xác của Bình Nhưỡng trong bộ tam đó ? Liệu Nga và Bắc Triều Tiên có sẽ làm mất cân bằng quan hệ bộ ba này hay không ? GV. Laurent Gédéon : Cho đến gần đây, tam giác Nga – Trung – Triều dường như cân bằng theo nghĩa Bắc Triều Tiên giữ lập trường cân bằng giữa Nga và Trung Quốc, và trên thực tế là gần với Trung Quốc hơn do vị trí địa lý. Tình trạng cân bằng này đã dẫn đến hệ quả là Bắc Kinh phối hợp với Matxcơva trong việc xử lý hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên. Cả hai nước đã cùng nhau bác bỏ lời kêu gọi của Mỹ và các đối tác của Mỹ nhằm áp đặt các trừng phạt mới nhằm vào Bắc Triều Tiên, và ngược lại, yêu cầu dỡ bỏ một số biện pháp trừng phạt. Trong bối cảnh này, việc Nga và Bắc Triều Tiên xích lại gần hơn tạo ra một yếu tố mới trong phương trình. Hiện tượng mới này có liên quan đến cuộc khủng hoảng Ukraina với hệ quả là Nga bị gạt ra ngoài lề trong quan hệ với phương Tây. Điều này đã thúc đẩy Matxcơva thắt chặt hơn nữa quan hệ với Bình Nhưỡng, dẫn đến việc tăng cường hợp tác quân sự giữa hai nước. Quan hệ Nga – Triều được thắt chặt hơn đã được chính thức hóa nhân chuyến thăm Bắc Triều Tiên của tổng thống Nga Vladimir Putin. Đây là chuyến thăm thứ hai của ông đến Bình Nhưỡng trong 24 năm cầm quyền. Nhân dịp này, cả hai lãnh đạo ngày 19/06/2024 thông báo một Hiệp ước Đối tác Chiến lược Toàn diện, trong đó bao gồm cả điều khoản « hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp một bên bị tấn công ». Hiện tại, mối quan hệ gần gũi giữa Nga và Bắc Triều Tiên dường như không làm Trung Quốc khó chịu. Bản thân Trung Quốc cũng được liên kết bởi những lợi ích chung mạnh mẽ với Nga. Cả hai quốc gia đều mong muốn thay đổi trật tự thế giới theo hướng có lợi cho họ, và do vậy, không muốn chứng kiến mặt trận chung của họ bị rạn nứt vào thời điểm nhạy cảm này. Việc xem Matxcơva và Bình Nhưỡng xích lại gần không hẳn là tiêu cực với Bắc Kinh, theo nghĩa động thái này không bị cho là mang tính thù nghịch. Chúng ta nên đặt lại tiến triển này trong bối cảnh chiến tranh tại Ukraina, vào lúc nhu cầu đạn dược của Nga ngày càng tăng, trong khi chỉ có một số ít quốc gia có thể đáp ứng, và trong số này có Bắc Triều Tiên. Vì vậy, có một khía cạnh hợp tác chiến thuật mạnh mẽ giữa hai nước như điều chúng ta thấy qua việc Bắc Triều Tiên gởi quân đến chiến trường. Ngoài ra, còn có thêm một thực tế là, theo quan điểm của Bắc Kinh, chính sách mà Washington theo đuổi đã dẫn đến hệ quả là Nga và Bắc Triều Tiên xích lại gần nhau hơn và làm tổn hại đến tình hình an ninh tại hai vùng ở lục địa Á – Âu (Ukraina và bán đảo Triều Tiên). Trung Quốc cho rằng Hoa Kỳ là bên chịu trách nhiệm chính cho các căng thẳng và là đối thủ cạnh tranh lớn của Bắc Kinh. Chính trong lập luận này mà Trung Quốc cáo buộc Mỹ đã sử dụng hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên như là một cái cớ để mở rộng sự hiện diện quân sự trong vùng, nhằm mục đích kềm chế sức mạnh Trung Quốc. Cho đến hiện tại, Trung Quốc cẩn trọng bình luận công khai về việc Nga và Bắc Triều Tiên thắt chặt hợp tác chiến lược, nhất là về việc Bình Nhưỡng dường như đã điều hơn một chục ngàn binh sĩ đến hỗ trợ Nga trong cuộc chiến xâm lược Ukraina. Làm thế nào giải thích cho sự im lặng đáng chú ý này của Trung Quốc ? Phải chăng là Trung Quốc đã bị bất ngờ ? GV. Laurent Gédéon : Như vừa rồi tôi đề cập đến, chiến tranh Ukraina là yếu tố quyết định thúc đẩy Nga và Bắc Triều Tiên thắt chặt quan hệ. Tổng thống Nga Vladimir Putin, khi thông báo về Hiệp ước đối tác Chiến lược Toàn diện, ngày 19/06/2024, đã nêu rõ, xin trích, « trong bối cảnh và trong khuôn khổ tài liệu mà chúng tôi đã ký kết, chúng tôi không loại trừ khả năng phát triển mối quan hệ hợp tác quân sự - kỹ thuật giữa Nga với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ». Trong phạm vi này, mối hợp tác quân sự giữa Nga và Bắc Triều Tiên dường như chủ yếu đáp ứng các yêu cầu mang tính chiến thuật và do vậy, Trung Quốc vào lúc này sẽ không có những lo lắng quan trọng nào về vấn đề này. Quả thật, nhu cầu về đạn dược của quân đội Nga là một trong các yếu tố mạnh mẽ thúc đẩy hợp tác với Bắc Triều Tiên và nước này cũng đã tận dụng cơ hội để thoát khỏi sự cô lập sâu sắc mà họ đang phải đối mặt. Liên quan đến việc binh sĩ Bắc Triều Tiên tham gia trực tiếp vào các cuộc giao tranh, thông báo đưa ra hồi tháng 11/2024 về việc triển khai khoảng 11 ngàn binh sĩ Bắc Triều Tiên ra chiến trường đã cho thấy rằng số binh sĩ này chủ yếu trú đóng tại vùng Kursk, nằm trên lãnh thổ Nga, chứ chưa phải trên lãnh thổ Ukraina. Mục tiêu nhắm đến của Matxcơva là tận dụng sự hỗ trợ này của Bắc Triều Tiên để lấy lại quyền kiểm soát vùng Kursk trước khi Donald Trump lên cầm quyền và khả năng bước vào một giai đoạn đàm phán. Thực vậy, việc chiếm lại được vùng lãnh thổ bị Ukraina chiếm đóng sẽ tước đi một lá bài ngoại giao quan trọng của Kiev. Theo quan điểm của tôi, Trung Quốc im lặng không hẳn là vì nước này bị bất ngờ, bởi vì, đối với tôi, có vẻ Nga – Trung đã liên lạc với nhau trước và sau khi Nga – Triều ký thỏa thuận. Sự im lặng này, theo ý tôi, có thể liên quan dến việc Trung Quốc có những phân tích cho rằng hành động này thiên về chiến thuật, chứ không phải là một sự thay đổi chiến lược cơ bản. Nhưng trong vòng một năm, Kim Jong Un và Vladimir Putin gặp nhau hai lần, trong khi cuộc gặp sau cùng giữa Tập Cận Bình và Kim Jong Un là vào năm 2019. Việc Nga và Bắc Triều Tiên xích lại gần phải chăng cho thấy ý định của Kim Jong Un muốn tách xa dần nước láng giềng khổng lồ, hay đó là dấu hiệu một sự củng cố quan hệ đối tác ba ba ? GV. Laurent Gédéon : Thật vậy, chúng ta nhận thấy chuyến công du nước ngoài đầu tiên của Kim Jong Un ngày 12/09/2023 kể từ khi kết thúc đại dịch Covid, diễn ra ở Nga chứ không phải là Trung Quốc. Chuyến thăm đến Nga trước đó của ông Kim là vào ngày 24/04/2019. Theo quan điểm của Bắc Triều Tiên, họ mong muốn không rơi vào một mối quan hệ song phương và mặt đối mặt riêng với Trung Quốc. Tái lập quan hệ với Matxcơva cho phép Bình Nhưỡng cân bằng mối quan hệ mà họ duy trì với Bắc Kinh và đưa ra một giải pháp thay thế thú vị về mặt chính tri. Nhìn từ Matxcơva, mối quan hệ được củng cố với Bình Nhưỡng cũng có những hệ quả tương tự, theo nghĩa, chúng cho phép giảm bớt tình trạng bất cân xứng chiến lược với Bắc Kinh. Trên thực tế, tiến triển của mối quan hệ Nga – Triều đã tạo ra một không gian ngoại giao không thể dự đoán cho Trung Quốc mà ở đó Nga có thể tận dụng một cách khéo léo. Hơn nữa, Bắc Triều Tiên, được trang bị vũ khí hạt nhân vĩnh viễn, giờ đã có một đòn bẩy đáng kể trong các mối quan hệ với tất cả các nước láng giềng, kể cả với Trung Quốc. Tình huống này hạn chế khả năng của Bắc Kinh gây ảnh hưởng lên Bình Nhưỡng. Tình trạng này không phải là không gây hệ quả cho Trung Quốc, bởi vì tuy giới chức lãnh đạo Trung Quốc không công khai lên án các hành động của Bắc Triều Tiên, nhưng việc họ không có khả năng gây ảnh hưởng lên Bình Nhưỡng đã làm suy yếu uy tín ngoại giao của Bắc Kinh, đó là chưa kể đến việc Bắc Triều Tiên tiếp tục chương trình phát triển hạt nhân gây bất ổn cho các nước láng giềng, đặc biệt là Hàn Quốc và Nhật Bản. Điều này đã dẫn đến việc củng cố các mối liên minh quân sự và an ninh do Mỹ dẫn đầu. Tình trạng này làm đã làm phức tạp hơn cho các lợi ích chiến lược của Trung Quốc trong vùng. Bắc Triều Tiên được trang bị vũ khí hạt nhân có thể sử dụng năng lực này như một « công cụ mặc cả » trong các cuộc đàm phán quốc tế và làm gia tăng các giá trị chiến lược của mình mà không cần phụ thuộc vào Trung Quốc. Dù vậy, như đã đề cập trước đó, lợi ích của sự hợp tác giữa các tác nhân chiến lược ba bên Nga – Trung – Triều dường như vượt lên trên những điều bất lợi cũng như động cơ thầm kín của những tác nhân này. Nhờ vào Nga, Bắc Triều Tiên rất có thể sẽ cải thiện được hiệu quả của kho vũ khí, đặc biệt là hạt nhân, nguồn cội của nguy cơ chiến tranh tại bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc sẽ tìm được lợi thế hay thêm rủi ro cho các lợi ích chiến lược của mình ? GV. Laurent Gédéon : Điều này phụ thuộc vào cách thức chúng ta phân tích tình hình. Nếu nhìn theo quan điểm song phương Trung – Triều, có lẽ Bắc Kinh sẽ không thoải mái khi trước cửa nhà mình có một đồng minh phiền phức và được trang bị năng lực hạt nhân đáng kể. Với sự trợ giúp của Nga, Bắc Triều Tiên có thể thúc đẩy nhanh chương trình phát triển vũ khí hạt nhân, dẫn đến việc Mỹ đáp trả mạnh hơn và trường hợp tệ nhất cho Bắc Kinh là sự hình thành điều mà Trung Quốc gọi là một « NATO châu Á » do Hoa Kỳ lãnh đạo và nhắm vào Trung Quốc. Do vậy, Trung Quốc rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan, bởi vì nếu chọn cách tránh xa tiến trình củng cố quan hệ Nga – Triều, Trung Quốc có nguy cơ phải chứng kiến căng thẳng kịch phát tại bán đảo Triều Tiên mà không thể giữ một vai trò quyết định nào trong diễn biến các sự kiện. Thế nên, dù muốn hay không, Bắc Kinh rơi vào tình huống đành phải ủng hộ những chuyển động do hai đối tác của mình tạo ra. Nhưng nếu chúng ta thay đổi cấp độ phân tích, và đặt câu hỏi về vị trí mà Bắc Triều Tiên đang nắm giữ trong toàn bộ vùng Á – Âu, chúng ta sẽ có một số nhận xét khá thú vị. Đặc trưng nổi bật của vùng Á – Âu hiện nay là sự xuất hiện của bốn cường quốc, hoạt động đặc biệt tích cực trên bình diện địa chính trị. Đó là Trung Quốc, Nga, Bắc Triều Tiên và Iran. Hai trong số này đã là cường quốc hạt nhân, đó là Nga và Trung Quốc ; cường quốc thứ ba trên thực tế là Bắc Triều Tiên và nước thứ tư đang có xu hướng hạt nhân hóa quân sự là Iran. Người ta nhận thấy là bốn tác nhân này đều được liên kết với nhau qua nhiều thỏa thuận khác nhau và cả bốn nước đều có những lợi ích chung. Về mặt địa chính trị, tất cả bốn nước này phụ thuộc lẫn nhau trong bối cảnh họ phải cùng nhau đối mặt với áp lực từ một tác nhân duy nhất là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, hay rộng hơn nữa là toàn bộ khối các nước được gọi là phương Tây. Một tình huống như vậy đòi hỏi Trung Quốc, Nga, Bắc Triều Tiên và Iran, nếu muốn hoàn thành các mục tiêu của mình, phải có một sự đồng thuận tối thiểu trên bình diện ngoại giao và chiến lược. Trong cấu hình này, Bắc Triều Tiên dường như ít có khả năng lao vào một trò chơi riêng rẽ cùng với Nga, gây tổn hại cho Trung Quốc, là quốc gia mà cả Bình Nhưỡng và Matxcơva đều cần cũng như là ngược lại. Trở lại với vấn đề Trung Quốc và việc hạt nhân hóa Bắc Triều Tiên, Bắc Kinh có thể tìm được một lợi thế ở việc, Bắc Triều Tiên – thông qua các hành động của mình – sẽ tăng cường khả năng răn đe Mỹ trong bối cảnh khu vực phía bắc của bán đảo Triều Tiên cũng là một lá chắn an ninh quan trọng cho Trung Quốc. RFI Tiếng Việt xin cảm ơn giảng viên Laurent Gédéon, trường đại học sư phạm Lyon .…

1 Tên lửa siêu thanh Orechnik: Trò chơi leo thang xung đột của tổng thống Nga Putin 11:18
11:18
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked11:18
Ngày 21/11/2024, quân đội Nga lần đầu tiên đã phóng tên lửa loại « Orechnik » nhằm vào thành phố Dnipro của Ukraina. Theo một số chuyên gia, với hành động này, tổng thống Vladimir Putin đưa ra một thách thức leo thang rất rõ ràng đối với phương Tây : Quý vị đã sẵn sàng hay chưa để Nga tấn công các cơ sở của NATO ở bất kỳ nơi nào tại châu Âu bằng các loại tên lửa siêu thanh mà quý vị không có ? Theo Le Monde, đây là lần đầu tiên trong lịch sử hạt nhân quân sự, Nga sử dụng một tên lửa đạn đạo tầm trung (IRBM), được thiết kế để mang đầu đạn hạt nhân trên chiến trường Ukraina. Tên lửa mới mang tên « Orechnik », có tầm bắn nằm trong khoảng từ 2000-3000 km. « Orechnik » : Đòn phủ đầu bất ngờ Chuyên gia Heloise Fayet, phụ trách chương trình nghiên cứu về Răn đe và Phổ biến Hạt nhân, Trung tâm Nghiên cứu An ninh, Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI), trên đài phát thanh France Culture giải thích đây là một phiên bản cải biên từ loại tên lửa cũ RS-26, từng được Nga phát triển trong những năm 2010, nhưng chương trình đã bị đình lại do quá tốn kém: « Điều thú vị ở đây là loại tên lửa này đã bị cấm trong từ năm 1987 đến năm 2019, nhờ vào Hiệp ước Lực lượng Hạt nhân Tầm trung (INF). Văn bản được ký kết giữa Hoa Kỳ và Liên Xô sau cuộc khủng hoảng tên lửa châu Âu (1977 – 1987). Vụ căng thẳng nổi tiếng này lại gia tăng giữa Mỹ và Liên Xô tại châu Âu sau khi Nga phát triển và bố trí một số loại tên lửa nhằm đáp trả việc Mỹ cho lắp tên lửa Pershing tại châu lục này. Hai đại cường thời kỳ đó nhận ra rằng việc trang bị các loại tên lửa đạn đạo có tầm bắn từ 500 đến 5.500 km tạo ra một sự mơ hồ chiến lược, bởi vì một điểm tại châu Âu đã nằm trong tầm bắn từ lãnh thổ Liên Xô, và do vậy loại tên lửa này đã bị cấm. Tuy nhiên, trong những năm 2010, Nga đã quyết định tái khởi động một số chương trình vũ khí. Kế hoạch bị Mỹ phát hiện và ông Donald Trump năm 2019 đã quyết định rút khỏi Hiệp ước INF và sau đó là đến lượt Nga . » Đương nhiên, đòn phủ đầu này của Nga đã mang lại niềm hân hoan cho những người theo đường lối cứng rắn tại Matxcơva. Còn tại các thủ đô phương Tây, hành động này của Nga đã gây bất ngờ và là một bước rẽ quan trọng trong cuộc chiến tranh Ukraina. Hành động này có thể được xem như là một thách thức từ ông Putin, theo đó, NATO không đủ sức để đối phó với các loại tên lửa « siêu thanh » của Nga mà phương Tây không hề có. Chiến lược leo thang căng thẳng Về điểm này, Ian Proud, một nhà cựu ngoại giao Anh, am tường về Nga, trên trang Responsible Statecraft (27/11/2024) đánh giá rằng phương Tây đang hiểu sai về chiến lược của Nga. Tại mỗi thời điểm quan trọng trong một thập kỷ qua, Nga tìm cách thống trị leo thang, một khái niệm Chiến Tranh Lạnh, theo đó, một quốc gia có thể kiềm chế xung đột tốt nhất và tránh leo thang nếu họ thống trị ở mỗi bậc leo thang liên tiếp, cho đến nấc sau cùng là bậc thang hạt nhân. Chiến lược này đã được Nga áp dụng kể từ khi nổ ra khủng hoảng Ukraina năm 2014. Việc sáp nhập bán đảo Crimée năm 2014 và cuộc chiến xâm lược Ukraina tháng 02/2022 là bước leo thang lớn mà NATO đã không đối đầu trực diện. Chiến lược này cũng được Nga thực hiện trong lĩnh vực ngoại giao. Người ta còn nhớ năm 2017, Matxcơva leo thang căng thẳng với Washington khi trục xuất 755 nhân viên ngoại giao Mỹ. Khi cho leo thang quá mức, Nga đánh cược rằng đối thủ của mình sẽ không sẵn sàng bước thêm một nấc thang nữa. Tại Matxcơva, có một quan điểm cứng rắn, được củng cố bởi chủ nghĩa tuần tiến của Joe Biden, cho rằng khi có căng thẳng, Nga sẽ luôn vượt trội hơn một liên minh phương Tây chia rẽ và yếu kém về mặt đạo đức. Bởi một lẽ dễ hiểu là Nga có thứ mà phương Tây không có : Quyền lực tối cao và Ý chí chính trị, để có thể đơn phương hành động. Ông Putin đã bị những người theo đường lối cứng rắn chỉ trích là đã không phản ứng trước việc phương Tây tăng cường viện trợ quân sự cho Ukraina. Do vậy, việc Nga phóng một tên lửa siêu thanh Orechnik vào một cơ sở vũ khí kiên cố của Ukraina tại Dnipro đúng là đã đánh dấu một bước leo thang mới, bởi vì đây là lần đầu tiên tên lửa đạn đạo tầm trung được sử dụng trên chiến trường. « Orechnik » : Ngưỡng hạt nhân không bị phá vỡ Theo ông Ian Proud, hành động này của Matxcơva mang nhiều ý nghĩa quan trọng, vì một số lý do. Thứ nhất, việc sử dụng tên lửa « Orechnik » cho thấy một sự leo thang mới về khả năng hủy diệt. Thiệt hại gây ra từ cuộc không kích này dường như lớn hơn đáng kể so với các cuộc tấn công thông thường khác. Về điểm này, nhà nghiên cứu Heloise Fayet, lưu ý rằng, điều thú vị ở đây, không phải ở điểm tên lửa có thể mang đầu đạn hạt nhân, mà là việc chúng có thể mang nhiều đầu đạn thông thường cùng một lúc. Trên đài phát thanh France Culture, nữ chuyên gia Pháp giải thích tiếp: « Giới chức Nga rất rõ ràng về chủ đề này. Mục tiêu của họ với loại tên lửa đạn đạo tầm trung là sử dụng nhiều đầu đạn cùng lúc và tiến hành bắn hàng loạt để có thể tiếp cận bằng tên lửa quy ước nhiều địa điểm mà trước đây chỉ có thể thực hiện bằng vũ khí hạt nhân, và do vậy cho phép tấn công dễ dàng hơn nhiều. Bởi vì, với một loại vũ khí quy ước như vậy, quý vị không vi phạm điều cấm kỵ về hạt nhân, và do vậy tấn công dễ dàng hơn nhiều các mục tiêu tại Ukraina, hay, tại sao không, ở Ba Lan, Rumani hay các nước vùng Baltic ? Điều này đặt ra câu hỏi : Chúng ta sẽ phản ứng thế nào, đặc biệt là NATO hay Pháp, trước một cuộc tấn công nhằm vào các địa điểm cho đến giờ được cho là khó thể bị nhắm đến ? » Thứ hai, theo ông Ian Proud, một ngày sau cuộc không kích, tổng thống Nga, trong bài phát biểu trước toàn dân, đã cẩn thận mô tả đây là « một cuộc thử nghiệm », đồng thời khẳng định tên lửa « Orechnik » có một khả năng triển khai vượt xa năng lực các loại tên lửa mà các cường quốc phương Tây cho phép Ukraina sử dụng để oanh kích sâu vào lãnh thổ Nga như ATACMS hay Storm Shadow. Nguyên thủ Nga còn để ngỏ cánh cửa cho các « cuộc thử nghiệm » tiếp theo của Orechnik. « Orechnik » làm lộ rõ điểm yếu của châu Âu Trong bài phát biểu, tổng thống Nga khẳng định, phương Tây chưa có một phương tiện nào để chống lại một kiểu oanh kích như ngày 21/11. Với tốc độ Mach 10, tức khoảng từ 2,5 -3 km/giây, chưa có một hệ thống phòng không nào hiện có trên thế giới, kể cả các hệ thống phòng không Mỹ bố trí tại châu Âu có thể bắn chặn. Một thông tin phần nào cũng được nhà nghiên cứu Heloise Faye, thừa nhận trên làn sóng France Culture ngày 25/11/2024: « Có một số hệ thống phòng không có khả năng bắn chặn loại tên lửa này, đặc biệt là hệ thống THAAD. Đây là hệ thống tên lửa của Mỹ và được nước này triển khai gần đây ở Israel để bảo vệ lãnh thổ Israel trước một cuộc tấn công của Iran. Vấn đề là hệ thống phòng không này cực kỳ đắt và có rất ít. Quả thật, nghĩ đến một dạng Vòm Sắt giống như hệ thống vũ khí được bố trí ở Israel trên lãnh thổ châu Âu hoàn toàn là một điều ảo tưởng . » Cuộc « thử nghiệm » của Nga đang đặt Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Pháp trong thế phải đối mặt với việc đưa Ukraina vào một tình huống mà một loại vũ khí có sức tàn phá lớn hơn có thể được sử dụng để chống phá các mục tiêu chiến lược hoặc trên chiến trường. Cuối cùng, phạm vi tấn công của Orechnik lớn hơn gấp 16 lần so với tên lửa ATACMS và Storm Shadow. Điều này đặt bất kỳ mục tiêu nào của NATO trong tầm bắn của cuộc tấn công thông thường. Theo nhiều nguồn tin từ Nga, trong cuộc không kích hôm 21/11, Nga đã phá hủy cơ sở vũ khí Yuzhmash, được xây dựng từ thời Liên Xô cũ, nằm sâu dưới lòng đất để tránh bị tấn công. Đây dường như là nơi được hãng vũ khí Rheinmetall của Đức sử dụng để sửa chữa xe tăng Leopard và Ukraina dùng làm cơ sở để sản xuất drone tầm xa. Thế nên, với việc lần đầu tiên dùng vũ khí đạn đạo tầm trung không kích Ukraina, ông Putin đã gởi đi một thông điệp rất rõ ràng đến các nhà hoạch định chiến lược quân sự của Mỹ và Anh Quốc, những nước ủng hộ việc triển khai ATACMS, hay Storm Shadow, rằng mục tiêu cụ thể sắp tới rất có thể sẽ là NATO. Leo thang xung đột : Mỹ có sẽ phản ứng ? Dù vậy, nhà nghiên cứu tại IFRI lưu ý thêm rằng, chi phí để sản xuất một loại tên lửa như vậy rất tốn kém, ước tính lên đến hàng chục triệu euro, phải mất nhiều năm để sản xuất và Nga hiện chỉ sở hữu một số lượng rất hạn chế, nhất là vẫn còn đang trong giai đoạn « thử nghiệm » như tuyên bố của nguyên thủ quốc gia Nga. Trong cuộc leo thang xung đột giữa Nga và Phương Tây, liệu tổng thống Nga có đi đến nấc sau cùng là dùng đến vũ khí nguyên tử hay không ? Chuyên gia Heloise Fayet cho biết lập trường của bà: « Theo tôi, nguy cơ sử dụng vũ khí nguyên tử là cực kỳ thấp, ngay cả khi chúng ta nói đến vũ khí hạt nhân của Mỹ, Bắc Triều Tiên, Nga… Tôi cho rằng Vladimir Putin đang tìm cách chứng tỏ rằng ông có nhiều giải pháp thay thế hơn là một cuộc tấn công hạt nhân, bởi vì ông biết rằng vũ khí hạt nhân đã không được dùng đến từ năm 1945 và thật không may là hiện nay, Nga không còn trong thế yếu trên chiến trường Ukraina. Ông Putin cũng thấy rõ là tại châu Âu và Mỹ đang có nhiều cuộc tranh luận, rồi việc ông Trump sắp trở lại cầm quyền, về nguyên tắc, là ít hậu thuẫn Ukraina hơn, và do vậy, ông ấy thật sự cũng chẳng được lợi gì nếu bị cộng đồng quốc tế gạt ra bên lề, nhất là có thể gây mâu thuẫn với đối tác Trung Quốc, vốn luôn thận trọng trong việc sử dụng vũ khí nguyên tử. Ngược lại, ông ấy sẽ tìm cách đẩy lùi dần ngưỡng sử dụng vũ khí hạt nhân khi đánh cược trên cả hai vế : Một mặt, bằng cách cho phát triển các phương tiện tấn công sâu theo quy ước, có thể cho phép ông đạt được mục tiêu chính trị nhưng không vi phạm điều cấm kỵ về hạt nhân, và mặt khác, bằng cách luôn đưa ra báo động về việc ông ấy điều chỉnh học thuyết răn đe hạt nhân Nga, để cho thấy mối đe dọa hạt nhân vẫn luôn còn đó. Một lần nữa, ông Putin có sẵn nhiều lựa chọn thay thế, kể cả tấn công mạng và nhất là, tại sao không, sử dụng vũ khí hóa học tấn công sâu để đẩy lui việc sử dụng vũ khí hạt nhân ». Về phía Mỹ, vào lúc sắp hết nhiệm kỳ tổng thống, liệu ông Biden có quyết định sẵn sàng leo thang quá mức với Putin hay không ? Điều này đòi hỏi vị tổng thống sắp mãn nhiệm phải mở rộng một cách ồ ạt, quy mô và phạm vi của các hệ thống vũ khí của Hoa Kỳ có thể được sử dụng ở Ukraina. Tuy nhiên, Ian Proud nhắc nhở, quân đội Mỹ vẫn chưa có một hệ thống tương đương đang hoạt động như Orechnik. Sắp đến ngày chính thức bước vào Nhà Trắng, liệu rằng Donald Trump có sẽ quyết định mở kho vũ khí hay không, đây vẫn còn là một điều đáng ngờ !…

1 Vatican thúc đẩy hòa bình ở Ukraina trước ngưỡng cửa mùa đông thứ ba 10:32
10:32
Play Later
Play Later
Lists
Like
Liked10:32
Từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 10 năm 2024, đức hồng y Matteo Zuppi đã đến Matxcơva trong vai trò đặc phái viên của Đức giáo hoàng Phanxicô để tiếp tục sứ mệnh « ngoại giao nhân đạo » thúc đẩy con đường hòa bình cho cuộc chiến ở Ukraina. Phát ngôn viên phòng báo chí Toà Thánh đã xác nhận nhưng không cho biết chi tiết về chuyến đi Nga của đức hồng y Zuppi sáng ngày 14/10. Sau khi kết thúc chuyến đi, cũng không có nhiều thông báo chi tiết được công bố. Và vào cuối tuần 19/10, một cuộc trao đổi tù binh chiến tranh của đôi bên đã diễn ra qua trung gian của Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất. Chuyến đi Nga xảy ra ngay sau cuộc gặp ngắn giữa tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky và đức giáo hoàng Phanxicô tại Vatican hôm 11/10/2024. Vào lúc chiến sự lan rộng, xung đột diễn ra ác liệt hơn, về mặt ngoại giao, hai bên vẫn chưa thể ngồi vào bàn đàm phán và Vatican là một trong số ít kênh còn mở nhằm tìm kiếm giải pháp hòa bình. Cách nay 15 tháng, đặc phái viên của giáo hoàng đã tới Matxcơva. Liệu đây có sẽ là chu kỳ được lặp lại ? Ngài có tiếp tục đi Kiev, Bắc Kinh và Washington hay không ? Tại sao lại tới M a txcơva ? Thông cáo của Văn phòng báo chí Toà Thánh giải thích rằng chuyến đi diễn ra « trong khuôn khổ nhiệm vụ mà đ ức g iáo hoàng Phanxicô giao phó cho [Zuppi] vào năm 2023 , đó là gặp gỡ các nhà chức trách và đánh giá các nỗ lực tiếp theo nhằm tạo điều kiện cho việc đoàn tụ gia đình của trẻ em Ukrain a và trao đổi tù nhân, nhằm đạt được h òa bình mà nhiều người mong đợi ». Tuyên bố có ba điểm quan trọng : Thứ nhất, đức hồng y Matteo Zuppi đến Matxcơva với tư cách là đặc phái viên hòa bình của Vatican, một vai trò mà ngài đã đảm nhiệm từ tháng 5/2023. Thứ hai, chuyến đi có hai mục tiêu. Đầu tiên hết là giúp đỡ gần 20.000 trẻ em Ukraina bị bắt đến Nga được trở về với gia đình. Mục tiêu thứ hai này cũng thúc đẩy trao đổi tù binh chiến tranh Nga và Ukraina. « Phái bộ Zuppi » đã đạt được một số thành công trên cả hai mặt trận, mặc dù khó có thể định lượng được do màn sương mù của cuộc chiến. Thứ ba, Tòa Thánh hy vọng rằng các thỏa thuận nhân đạo sẽ là bước mở đầu cho các cuộc đàm phán hòa bình. Sau hơn một năm, nhiều sự kiện này đã diễn ra qua các chuyến đi và gặp gỡ của các nhân vật có trách nhiệm và chính đức giáo hoàng cho thấy Tòa Thánh đã làm việc không ngừng, và nhất là trong những tháng gần đây để thúc đẩy sứ mệnh của mình. Việc đức hồng y Zuppi trở lại Nga ngụ ý rằng các cuộc thảo luận về tù binh chiến tranh và trẻ em bị bắt cóc đã tiến triển đến mức cần phải có các cuộc đàm phán trực tiếp để đạt được nhiều tiến bộ hơn nữa. Nhưng đó đơn giản chỉ là một suy luận. Nhưng lịch trình của chuyến đi đã được thông báo cụ thể ? Chuyến đi của đức hồng y Zuppi bắt đầu bằng cuộc gặp ngày 14/10/2024 với ngoại trưởng Nga Serguei Lavrov. Bản thân điều này đã đánh dấu sự khác biệt đáng kể so với chuyến thăm đầu tiên của ngài. Trong chuyến đi trước vào tháng 6/2023, quan chức ngoại giao cấp cao nhất mà ngài gặp là Yuri Ushakov, trợ lý của tổng thống Nga về chính sách đối ngoại. Tòa Thánh Vatican có thể sẽ vui mừng khi Zuppi bảo đảm được một cuộc gặp ngay lập tức với ngoại trưởng Lavrov, có thể nói là nhân vật của điện Kremlin dễ nhận biết nhất sau tổng thống Vladimir Putin. Điều này cho thấy các nỗ lực nhân đạo của Tòa Thánh đang được chính phủ Nga coi trọng. Tuy nhiên, Vatican có thể thất vọng vì, không giống như tháng 6/2023, đặc sứ của giáo hoàng lần này không thể gặp nhà lãnh đạo Giáo hội Chính thống giáo Nga là đức thượng phụ Kirill. Một linh mục thuộc Uỷ Ban Quan hệ Đối ngoại của Tòa thượng phụ Matxcơva đã nói với hãng thông tấn nhà nước Nga TASS rằng « l ịch trình làm việc bận rộn của Đức t hượng phụ Kirill không cho phép một cuộc gặp mới với h ồng y Zuppi ». Nhưng đó không phải dấu hiệu quá thất vọng vì còn có những cuộc họp mang tính xây dựng tích cực ở cấp thấp hơn ? Bên cạnh cuộc gặp với Serguei Lavrov, ngoại trưởng Nga và Yuri Ushakov, cố vấn cho tổng thống Liên bang Nga về các vấn đề chính sách đối ngoại, còn có Marija Lvova-Belova, ủy viên tổng thống về Quyền Trẻ em và Tatiana Moskalkova, ủy viên tổng thống về Nhân quyền. Tuy không có cuộc họp nào với Đức thượng phụ Kyrill, nhưng quan trọng không kém là cuộc gặp gỡ với Giáo hội Chính thống Nga mà đại diện là đức tổng giám mục Antonij, chủ tịch Uỷ ban Quan hệ Đối ngoại của Tòa thượng phụ Matxcơva, có thể coi như là Ngoại trưởng, người mà Zuppi đã « thảo luận về nhiều vấn đề khác nhau, đặc biệt là những vấn đề có tính chất nhân đạo », theo ghi chú của Tòa Thánh. Trong cuộc họp này, có sự hiện diện của sứ thần Tòa Thánh tại Nga, đức tổng giám mục Giovanni D'Aniello, và đức ông Paul Butnaru, thuộc Cơ quan liên lạc với các quốc gia của Phủ Quốc vụ khanh. Đức hồng y Zuppi và đức tổng giá mục Antonij đã từng gặp nhau trong chuyến thăm trước vào năm 2023. Vatican vẫn tin rằng các Giáo hội có thể đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hòa bình. Cũng vào ngày 15/10, Zuppi đã nói chuyện với ủy viên phụ trách quyền trẻ em của Nga Maria Lvova-Belova, như ngài đã làm trong chuyến thăm năm 2023. Xin nhắc lại, cuộc gặp đầu tiên này giữa hai bên đã gây tranh cãi sâu sắc ở Ukraina, vì Tòa án Hình sự Quốc tế tại La Haye đã ban hành lệnh bắt giữ Lvova-Belova vào tháng 3/2023, khi buộc tội bà phải « chịu trách nhiệm về tội ác chiến tranh là cưỡng bức bất hợp pháp » trẻ em Ukraina sang Nga. Tuy nhiên, cuộc gặp năm 2023 với Lvova-Belova được cho là đã giúp Vatican thiết lập một cơ chế để đưa trẻ em trở về Ukraina. Theo nhật báo công giáo Ý Avvenire, hoạt động tiếp cận của Zuppi đã dẫn đến một hội nghị thượng đỉnh « trực tuyến » giữa Lvova-Belova và người đồng cấp Ukraina, mà tờ báo của các giám mục Ý mô tả là « một trong những trường hợp rất hiếm hoi có sự tiếp xúc trực tiếp giữa các bên ». Nhưng thông tin chi tiết về hội nghị thượng đỉnh này được giữ kín. Mặc dù Lvova-Belova đã nói vào tháng 4/2024 rằng « lần đầu tiên theo hình thức trực tiếp, chúng tôi đã có các cuộc đàm phán với phía Ukrain a », nhưng thanh tra viên Ukraina Dmytro Lubinets dường như đã bày tỏ sự nghi ngờ về tuyên bố này. Cuộc gặp thứ hai của Zuppi với Lvova-Belova có thể nhằm mục đích củng cố cơ chế hồi hương những trẻ em bị trục xuất. Sau cuộc họp, Lvova-Belova cho biết : « Chúng tôi đã đồng ý tiếp tục hợp tác vì lợi ích của các gia đình và trẻ em ». Còn theo Vatican News, « chúng tôi đã thảo luận về kết quả và sự tương tác hơn nữa vì lợi ích của các gia đình và trẻ em, bao gồm cả việc đoàn tụ các gia đình từ Nga và Ukraina. Chúng tôi đang thực hiện việc này với sự tham gia của bộ Ngoại Giao Nga. Chúng tôi quyết định tiếp tục làm việc cùng nhau ». Mặc dù tuyên bố không tiết lộ nhiều, nhưng nó cho thấy cuộc họp diễn ra khá tốt. Tiếp theo là gì ? Đây có phải điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến công du hoà bình vòng quanh thế giới như đã từng thực hiện hồi năm 2023 ? Việc đức hồng Y Zuppi đến Matxcơva lần này, trước tiên, cho thấy ông không chỉ đơn giản là quay lại con đường cũ và Vatican coi Nga là nơi phù hợp để tập trung các nỗ lực ngoại giao tại thời điểm này. Nhưng điều này vẫn chưa chắc chắn vì Vatican chia sẻ rất ít thông tin trước, về lịch trình công tác của phái viên hòa bình. Vatican có xu hướng chỉ đưa ra thông báo sau khi Zuppi đến thủ đô nước ngoài, vì vậy, ngay cả khi vị hồng y này có sẽ đến Ukraina tiếp theo hay không. Vatican cũng có thể không xem xét đến một chuyến đi khác tới Trung Quốc như là ưu tiên. Bởi vì việc này có thể thực hiện bằng hình thức họp trực tuyến như đã từng có : Cuộc điện đàm của đức hồng y Zuppi với đặc sứ Trung Quốc Lý Huy phụ trách các vấn đề Á-Âu hồi tháng 8/2023. Điều chắc chắn là Ukraina đã thấy Vatican cử đại diện là ngoại trưởng Tòa Thánh, đức tổng giám mục Paul Gallargher đến tham dự hội nghị cấp bộ trưởng vào ngày 30-31/10/2024 tại Canada thảo luận về việc trao trả tù binh chiến tranh Ukraina, thường dân và trẻ em bị trục xuất. Hội nghị Mon t réal kết thúc cho kết quả ra sao ? Hội nghị bộ trưởng diễn ra ở Montreal do Canada – Na Uy và Ukraina đồng chủ tịch để bàn về các vấn đề nhân đạo với hơn 70 nước và các tổ chức quốc tế. Hội nghị nhằm mục đích thiết lập lộ trình với các giải pháp thực tế để giải quyết mọi giai đoạn hồi hương tù binh chiến tranh và người bị trục xuất, bao gồm quân nhân, thường dân và trẻ em, cũng như tăng cường gây sức ép buộc Liên bang Nga phải tuân thủ luật pháp quốc tế và Công ước Genève. Người đứng đầu văn phòng tổng thống Ukraina, Andrij Yermak đã có cuộc họp riêng với các đại diện của Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Vatican và Thuỵ Sỹ. Ông Andrij Yermak và ngoại trưởng Tòa Thánh, đức tổng giám mục Paul Gallagher đã thảo luận về việc tăng cường hợp tác và đóng góp của Vatican vào việc thực hiện Công thức hòa bình, đặc biệt là việc thực hiện sứ mệnh của hồng y Matteo Zuppi nhằm hồi hương những trẻ em bị bắt cóc và tù nhân Ukraina. Đồng thời, đại sứ Ukraina bên cạnh Toà Thánh, Andrii Yarash đã gửi năm danh sách cho bộ trưởng ngoại giao Vatican: « một của những nhà báo; một của các thường dân đang trong tình trạng sức khỏe nguy kịch; một của những người lính bị thương; một của những giáo sĩ bị bắt; và tất nhiên là danh sách các trẻ em bị bắt cóc sang Nga . » Trong sứ mạng này, đại sứ cho biết, Ukraina đã có hai đối tác quan trọng là Qatar và Canada, nhưng Vatican có một vị trí đặc biệt. Ông nhắc đến đức giáo hoàng, đức hồng y Pietro Parolin, hệ thống các tòa khâm sứ và các khâm sứ Tòa Thánh, và nhất là vai trò đặc biệt của đức hồng y Matteo Zuppi. Nhưng trong những tháng tới, chúng ta nên chú ý đến các cuộc trao đổi tù binh chiến tranh và thường dân cũng như trẻ em bị bắt cóc. Mặc dù vai trò của Vatican trong những sự kiện như vậy hiếm khi được nhấn mạnh, nhưng Tòa Thánh không hề có dấu hiệu chậm lại trong nỗ lực đạt được bước đột phá nhân đạo khó nắm bắt trong diễn tiến của cuộc chiến này.…
Welcome to Player FM!
Player FM is scanning the web for high-quality podcasts for you to enjoy right now. It's the best podcast app and works on Android, iPhone, and the web. Signup to sync subscriptions across devices.